Author Archives: admin

Phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình

Nguyễn Vĩnh Thống
TS. BS. Trưởng khoa CTCH BV. Chợ Rẫy TP.HCM

Tóm tắt


1. Đặt vấn đề:
 Một số trường hợp phẫu thuật lớn của chỉnh hình như thay khớp háng khớp gối, phẫu thuật khung chậu và đầu trên xương đùi thường có nguy cơ cao bị huyết khối tĩnh mạch. Huyết khối tĩnh mạch biểu hiện bằng huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi là nguyên nhân đưa đến tử vong. Có nhiều khuyến cáo nên sử dụng các biện pháp phòng ngừa để giảm nguy cơ trên.
2. Tại sao phải phòng ngừa? Phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch để giảm tần suất bị huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi. Ngoài ra còn tránh các hội chứng sau thuyên tắc.
3. Các biện pháp phòng ngừa? Có thể bằng thuốc (hóa chất), các biện pháp cơ học như băng ép gián cách cùng với một số thủ thuật cần lưu ý khi phẫu thuật.
4. Thời gian phòng ngừa? Có một số ý kiến dùng hóa chất phòng huyết khối sau mổ 5-7 ngày, khi mà bệnh nhân có thể vận động nhiều. Có ý kiến cần kéo dài thời gian phòng ngừa, như khớp gối là 2 tuần và khớp háng là 4 tuần vì nhiều trường hợp huyết khối hình thành sau mổ nhiều tuần.
5. Các điều lợi và bất lợi khi phòng bằng hóa chất? Phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sau mổ bằng hóa chất có lợi là giảm tần suất huyết khối tĩnh mạch sâu và như thế là giảm tỉ lệ tử vong do thuyên tắc phổi. Tuy nhiên phải chấp nhận nguy cơ chảy máu, hiện tượng chảy máu cùng với các biến chứng của nó có thể tại chỗ hay toàn thân.
6. Kết luận: Phẫu thuật lớn về chỉnh hình có nguy cơ cao bị huyết khối tĩnh mạch, việc phòng ngừa huyết khối là cần thiết, trong đó phòng ngừa bằng cơ học thì không có biến chứng trong khi sử dụng hóa chất có nguy cơ chảy máu, cần được theo dõi và xử lý.

Summary

THROMBOEMBOLIC PROPHYLAXIS IN ORTHOPEDIC SURGERY

1. Background: A number of major orthopedic interventions may associate with thromboembolic events including deep venous thrombosis (DVT) and pulmonary embolism (PE). The latter may eventually lead to fatal outcomes. Various recommendations on thromboembolic prophylaxis have been developed to restrict these complications.
2. Why a thromboembolic prophylaxis should be done? The occurrence of thromboembolic events can be effectively prevented by using a prophylaxis regimen. In addition, the incidence of post-thrombotic syndromes, sources of secondary complications, is substantially lowered with an effective prophylaxis.
3. What are the main prophylactic measures? Thromboembolic prophylaxis may be pharmacologic or mechanical. Clinical vigilance in anesthesia, surgical techniques, pain management, etc… is recommended for a better post-operative course and early mobilization.
4. How long will the pharmacologic prophylaxis be done? An antithrombotic agent given for 5-7 days after surgery is suggested by some authors as at that time the patient can mobilize and do exercises. Others suggest a duration up to 2 weeks for knee replacement and 4 weeks for hip replacement.
5. What are benefits and risks of pharmacologic chemical prophylaxis? It is really a balancing act between reduced DVT rates, with its complications of post thrombotic syndrome and pain, and associated increased bleeding complications.
6. Conclusion: Major orthopedic surgery usually associates with increased risks of thromboembolic events. Thus, prevention is necessary. Mechanical prophylaxis  is effective and safe, while chemoprophylactic agents are reserved for high risk patients that needs to be cautioned to the risk of bleeding.

1. Đặt vấn đề:

Một số phẫu thuật lớn của chuyên khoa Chấn Thương Chỉnh Hình như thay khớp háng, khớp gối, phẫu thuật ổ cối, đầu trên xương đùi được khuyến cáo là nên sử dụng thuốc phòng huyết khối tĩnh mạch. Mục đích nhằm tránh tử vong do thuyên tắc phổi, giảm nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu (HKTMS) cùng với các biến chứng của nó như hội chứng sau thuyên tắc, tăng áp lực động mạch phổi và huyết khối tĩnh mạch tái hồi.(1)
Ít có lĩnh vực nào của chỉnh hình có nhiều trăn trở và nhiều tranh luận như vấn đề phòng ngừa huyết khối trong phẫu thuật. Bên cạnh câu hỏi tại sao phải phòng ngừa huyết khối, còn vấn đề chưa được thống nhất là loại thuốc gì và thời gian dùng thuốc kéo dài bao lâu.

2. Dịch tễ học

Lịch sử bệnh huyết khối tĩnh mạch trong phẫu thuật thay khớp được đánh dấu bằng hai báo cáo:(2)
1. Johnson và Charnley (1973) tổng kết 7.959 phẫu thuật thay khớp háng từ năm 1962-1973, tỉ lệ thuyên tắc phổi là 7,9 % và tử vong là 1,04%.
2. Coventry (1974) báo cáo trong 2012 ca thay khớp háng có 2,2% thuyên tắc phổi, các bệnh nhân này được dùng warfarin 5 ngày sau mổ, cuộc mổ kéo dài và mất nhiều máu hơn so với hiện nay. Ông báo cáo tỉ lệ tử vong do thuyên tắc phổi là 3,4% nếu không dùng thuốc kháng đông phòng ngừa.
Ở Anh quốc, Warwick D báo cáo 1.162 trường hợp thay khớp háng, không dùng kháng đông, với kỹ thuật mổ hiện tại, tỉ lệ tử vong do thuyên tắc phổi là 0,5%. Nếu có dùng thuốc kháng đông phòng ngừa thì tỉ lệ này là 0,01-0,02%.(3)
Cần chú ý là bệnh lý tắc mạch có sự khác biệt đáng kể về chủng tộc. Trong một báo cáo mới đây ở Ấn Độ, 147 bệnh nhân mổ thay khớp háng, khớp gối và đầu trên xương đùi, không dùng kháng đông phòng ngừa, có 6% bị huyết khối tĩnh mạch sâu, 0,6% bị thuyên tắc phổi nhưng không gây tử vong. Các tác giả nêu một số yếu tố nguy cơ gây bệnh lý này như bất động hơn 72 giờ, béo phì, mang thai và phẫu thuật kéo dài hơn 2 giờ.(4)
Đối với gãy khung chậu và ổ cối, nếu không phòng ngừa, tỉ lệ HKTMS là 61%, đáng ngạc nhiên là chỉ có 1,5% bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng HKTMS trước khi có chẩn đoán bằng tĩnh mạch đồ; trường hợp có sử dụng các biện pháp phòng ngừa thì tỉ lệ HKTMS là 2-33%. Các phương tiện tầm soát thông thường không thể phát hiện huyết khối tĩnh mạch trên dây chằng bẹn. Hiên nay, để phát hiện huyết khối ở mức cao này cần làm tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ (MRV, magnetic resonance venography) hoặc chụp cắt lớp điện toán với chất cản quang.(5)
Huyết khối tĩnh mạch liên quan đến tử vong và những bệnh lý về sau, huyết khối tĩnh mạch là nguyên nhân khiến bệnh nhân phải nhập viện sau phẫu thuật thay khớp và một số lớn các trường hợp có triệu chứng của huyết khối tĩnh mạch sau khi xuất viện

3. Các nguy cơ dẫn đến HKTMS liên quan đến tam chứng Virchow

Tam chứng Virchow bao gồm: – Tình trạng máu tăng đông – Tổn thương lớp nội mạc – Ứ trệ tuần hoàn.
1. Tình trang máu tăng đông: như các bệnh lý ác tính, thai kỳ và lúc sinh nở, liệu pháp điều trị bằng estrogen, viêm nhiễm đường tiêu hóa, tình trạng nhiễm trùng nói chung, tăng tiểu cầu.
2. Tổn thương lớp nội mạc: do chấn thương hay phẫu thuật, bệnh lý mạch vành, xơ vữa động mạch, đặt ống thông nội mạch.
3. Ứ trệ tuần hoàn: rối loạn chức năng tâm thất trái, tình trạng bất động hoặc liệt, suy tĩnh mạch hoặc tĩnh mạch trướng, nghẽn tĩnh mạch do bướu, do tình trạng béo hoặc do thai kỳ.

4. Phẫu thuật chỉnh hình có liên quan đến tam chứng Virchow (Bảng 1)

Bảng 1: Phẫu thuật chỉnh hình có liên quan đến tam chứng Virchow

Tổn thương nội mạch Ứ trệ tuần hoàn Tăng tính đông máu
– Do tư thế mổ và thao tác
– Tổn thương do nhiệt
– Sử dụng xi măng xương
– Dùng ga-rô trong lúc mổ
– Bất động lúc mổ
– Dùng ga-rô
– Gây mê
– Hạn chế vận động trong giai đoạn phục hồi
– Phóng thích yếu tố đông máu ở mô
– Hoạt hóa men đông máu
– Kìm hãm hệ tiêu sợi huyết nội sinh sau mổ

5. Hậu quả của huyết khối tĩnh mạch:(2)

o  Tử vong do thuyên tắc phổi
o  Gia tăng nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch tái hồi.
o  Hội chứng mạn tính sau thuyên tắc: phù nề chi, da dầy sần sùi, loét da cẳng chân mạn tính
o  Tăng áp lực động mạch phổi mạn tính sau thuyên tắc: khó thở khi gắng sức, mệt mỏi, khả năng lao động giảm dần và dẫn đến kiệt sức. Tổn thương tâm thất phải dẫn đến đau ngực do gắng sức, sau đó tím tái theo tiến trình của bệnh.
o  Nguy cơ bị suy nhược và giảm chất lương cuộc sống.
o  Chi phí điều trị cao.

6. Phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch

Liên quan đến sử dụng thuốc gây mê, thuốc phòng ngừa, phòng ngừa bằng biện pháp cơ học, kỹ thuật theo dõi thuyên tắc tĩnh mạch sâu.(5,2)

a. Phương pháp vô cảm

Một gợi ý rằng nếu dùng thuốc tê ngoài màng cứng hay tê tủy thì hạ được tỉ lệ HKTMS xuống 40-50%, được giải thích là do gia tăng lưu lương máu đến chi dưới trong lúc mổ và thời gian sau mổ. Tuy nhiên để tránh nguy cơ máu tụ ngoài màng cứng thì heparin trọng lượng phân tử thấp nên sử dụng sau mổ 12 giờ.

b. Thuốc

Có thể là warfarin, heparin, heparin phân tử nhỏ, aspirin, thuốc ức chế trực tiếp thrombin như melagatran và ximelagatran và mới đây là rivaro-xaban dùng đường uống.

c. Các biên pháp cơ học

Băng ép đùi cẳng bàn chân sau mổ, băng ép bằng hơi gián cách sẽ làm gia tăng lưu thông máu và giảm ứ đọng máu tĩnh mạch, không làm tăng nguy cơ chảy máu. Wilson (1991) nghiên cứu ngẫu nhiên tiền cứu về HKTMS trên ba nhóm: – băng ép gián cách đơn thuần – băng ép gián cách phối hợp với dùng aspirin và nhóm thứ ba băng ép gián cách kết hợp với warfarin. Kết quả không có sự khác biệt về sự xuất hiện HKTMS trên ba nhóm trên.
Ryan (2002) so sánh nhóm băng ép kết hợp với aspirin và nhóm aspirin đơn thuần, kết quả tần suất HKTMS của nhóm có kết hợp là 8% và nhóm aspirin là 22%. Tác giả kết luận lợi ích của biên pháp cơ học là rõ ràng.
Murray (1996) phát biểu rằng không thể nhận biết được sự khác biệt giữa tần suất tử vong của nhóm nghiên cứu có sử dụng biện pháp phòng ngừa với nhóm không phòng ngừa, tỉ lệ này là theo thứ tự 0,1% và 0,2%. Tác giả cho rằng phòng ngừa có nhiều nguy cơ hơn so với nguy cơ của tử vong do thuyên tắc phổi. Tác giả cho rằng tần suất tử vong do thuyên tắc phổi là quá thấp, tại sao lại có quá nhiều nghiên cứu muốn chứng minh có sự khác biệt giữa có sử dụng thuốc và không sử dụng thuốc.
Hiện nay về chứng cứ cũng chưa thật mạnh mẽ để chứng tỏ việc sử dụng thuốc thế hệ mới có thể làm giảm nguy cơ HKTMS và giảm tử vong do thuyên tắc phổi.(2)

7. Nguy cơ của việc phòng ngừa bằng thuốc

Nguy cơ chảy máu khi phòng ngừa bằng thuốc là đáng kể. Nếu xem tỉ lệ tử vong do thuyên tắc phổi là ổn định trong khoảng 0,1-0,2%, độc lập với có dùng hay không dùng biện pháp phòng ngừa, thì nguy cơ chảy máu gia tăng đáng kể 5% khi dùng inoxyparin và khoảng 2,3% khi dung warfarin liều thấp. Như vãy, dùng thuốc phòng ngừa làm giảm tần suất HKTMS cùng với biến chứng là hội chứng sau thuyên tắc và đau, bù lại phải chấp nhân tỉ lệ biến chứng chảy máu không kém phần trầm trọng.
Các biến chứng do chảy máu có thể là tụ máu vết mổ, vết mổ bị bung hở, nhiễm trùng, liệt thần kinh ngoại biên xuất huyết nội, đông máu nội mạch lan tỏa, giảm tiểu cầu do heparin, hoại tử da do warfarin, đột quỵ, và tử vong.(5)
Một số khuyến cáo để giảm HKTMS là đánh giá các yếu tố nguy cơ của từng bệnh nhân trước mổ. Ví dụ phải ngưng sử dụng hormon thay thế 1 tháng trước mổ, ngưng hút thuốc và các thuốc ngưng tập tiểu cầu hai tuần trước mổ. Cố gắng rút ngắn thời gian phẫu thuật, băng ép cẳng chân hai bên trong lúc mổ. Sau mổ, tiếp tục băng ép chân mổ. Cho bệnh nhân vận động sớm, thở sâu và ngồi sớm, tập đi sớm
Tóm lại, với kỹ thuật mổ và hồi sức hiện đại, tần suất tử vong do thuyên tắc phổi sau phẫu thuật chỉnh hình là 0,1-0,2%. Phòng ngừa bằng biện pháp cơ học giảm được HKTMS mà không tăng nguy cơ chảy máu. Dùng thuốc (hay hóa chất) phòng ngừa thì bên cạnh giảm nguy cơ HKTMS có sự gia tăng nguy cơ chảy máu nên cần phải được quan tâm.(6)

8. Kết luận

o  Phẫu thuật thay khớp háng và gối có nguy cơ cao bị huyết khối tĩnh mạch
o  Nguy cơ có thể xảy ra nhiều tuần sau khi xuất viện
o  Biến chứng lâu dài của huyết khối tĩnh mạch làm gia tăng nguy cơ bệnh tật và giảm chất lượng cuộc sống
o  Phòng ngừa cấp một đối với huyết khối tĩnh mạch là quan trọng.

Tài liệu tham khảo

1.     Mark C. Reilly. (2001),”Fractures of the acetabulum”, In: Rockwood and Green’s. Fractures in adults, sixth edition, Lippincott Williams&Wilkin, pp. 1665-1714.
2.     Simon Coffey. (2007), “Thromboembolic prophylaxis”, Delta course compendium, 2nd Edition, pp. 98-102.
3.     Warwick D, Williams MH, Bannister GC. Death and thromboembolic disease after total hip replacement. A series of 1162 cases with no routine chemical prophylaxis. J Bone Joint Surg Br. 1995 Jan;77(1):6-10.
4.     Bagaria V, Modi N, Panghate A, Vaidya S. Incidence and risk factors for development of venous thromboembolism in Indian patients undergoing major orthopaedic surgery: results of a prospective study. Postgrad Med J. 2006 Feb;82(964):136-9.
5.     Kyle J. Jeray. (2007), “Management of perioperative complication – Thromboembolism”, In: Fractures of the Pelvis and Acetabulum, Informa Healthcare USA, pp.314-316.
6.     Douglas W. Jackson. (2006), “Carefully weigh the benefits and risks of prophylaxis for thromboembolic disease”, Orthopedics today, volume 26- number 12- December 2006, pp 66-67.

Download pdf

Sử dụng dimenhydrinat cho trẻ bị nôn ói

Câu hỏi:  Dimenhydrinat là thuốc mua không cần toa, thường được dùng đểđiều trịbuồn nôn và ói mửa. Nhiều bệnh nhân người lớn đã dùng nó, nhưng liệu nó có an toàn và hữu ích đối với bệnh nhân trẻem không?

Trả lời:  Dimenhydrinat tỏ ra an toàn để sử dụng ở trẻ em. Trong khi y văn chưa có nhiều thông tin về tác dụng phụ của thuốc này, các bác sĩ gia đình cần tìm ra nguyên nhân của ói mửa trước khi xem xét thuốc có hiệu quả hay không và phải bảo đảm rằng bệnh nhân sẽ dùng thuốc một cách an toàn và tránh các tương tác tiềm năng với các sản phẩm khác.

Dimenhydrinat là một ethanolamin được cấu tạo bởi 53% đến 56% diphenhydramin và 44% đến 47% 8-chlorotheophyllin. Chỉ định chính của dimenhydrinat là nuồn nôn, ói mửa, hoặc chóng mặt do say tàu xe, nhưng thường được dùng để chữa nôn và ói do nhiều bệnh trạng khác nhau. Thuốc được Bộ Y tế Canada cho phép bán không cần toa bác sĩ cho bệnh nhi trên 2 tuổi, và cũng được phép sử dụng chỉ trẻ dưới 2 tuổi theo toa bác sĩ. Liều dùng được tính theo tuổi chứ không tính theo cân nặng. Thuốc thường được các bậc cha mẹ mua dùng cho con và được họ cho là an toàn.

Đặc tính an toàn
Tuy dimenhydrinat được sử dụng rộng rãi, nhưng hiện chưa có đủ bằng chứng về độ an toàn. Khi tìm trên  PubMed, MEDLINE với từ khóa “Gravol” hoặc “dimenhydrinate” thấy có 495 bài báo, nhưng chỉ có 95 bài khảo sát các đối tượng từ 0 đến 18 tuổi. Có rất ít bằng chứng về các biến chứng đi kèm với dimenhydrinat. Không biết có phải các biến cố bất lợi ít khi xảy ra hay là do khách hàng và thầy thuốc không báo cáo, nếu có. Trong khi quá liều dimenhydrinat đã được báo cáo là gây ra các triệu chứng ở hệ thần kinh trung ương và triệu chứng kháng-cholin (ví dụ nhịp tim tăng nhẹ và nhịp thở nhanh, ảo thị, lú lẫn, thất điều, nói líu lưỡi) (Rowe C và cs, 1997), nhưng có ít báo cáo về độc tính do dùng thuốc.
Năm 2006, Hội Liên hiệp các Trung tâm Phòng Chống Độc Hoa Kỳ đã công bố một tài liệu hướng dẫn đồng thuận về ngộ độc dimenhydrinat và diphenhydramin. Trong tài liệu không có báo cáo nào về các biến cố bất lợi sau khi phơi nhiễm điều trị cấp thời với dimenhydrinat ở trẻ em trên 6 tuổi. Tất cả các tác dụng phụ sau phơi nhiễm cấp thời với dimenhydrinat ở trẻ dưới 6 tuổi đều là những dữ liệu trong các báo cáo ca bệnh, báo cáo hàng loạt ca, và thông báo cá nhân (Scharman EJ và cs, 2009). Trừ 1 báo cáo, trong tất cả những báo cáo còn lại đều là tác dụng phụ xảy ra ở trẻ dùng liều cao hơn liều được khuyến nghị. Em bé được dùng liều khuyến nghị là một trẻ 2 tháng tuổi, bị ngưng thở sau khi dùng liều 8 mg đường hậu môn. Các tác giả bản hướng dẫn đồng thuận ghi nhận đây là một thông báo cá nhân còn thiếu nhiều chi tiết quan trọng.
Đối với phơi nhiễm điều trị dài hạn, chỉ có 3 trường hợp được báo cáo ở trẻ dưới 6 tuổi, tất cả đều dựa trên thông báo cá nhân không được mô tả chi tiết trong bài báo (Cassimos C và cs, 1975). Trong khi các báo cáo về độc tính (gồm ngủ gà, khó ở, đánh trống ngực, trụy tim mạch, mất phương hướng, kích động, rối loạn thị giác, viêm mạch máu, và viêm não nhiễm độc) đã được ghi nhận trên người lớn phơi nhiễm dài hạn với liều điều trị, không có báo ac1o nào ở trẻ em trên 6 tuổi.
Nhiều thầy thuốc thực hành không biết rằng dimenhydrinat chứa một dẫn chất caffein (8- chlorotheophyllin) và sẽ có 2,2 đến 2,4 mg 8-chlorotheophyllin trong một liều dimenhydrinat 5 mg tính theo kg cân nặng. Trên một em bé 30 kg, lượng 8-chlorotheophyllin có thể lên tới 66 đến 71 mg. Để so sánh, một lon Coca 355 mL hoặc một ly cà phê 240 mL chứa 104 đến 192 mg caffein. Chưa có nghiên cứu tìm hiểu xem tác dụng của 8-chlorotheophyllin có tương tự như tác dụng của theophyllin hay không.
Một điểm khác cần xem xét trước khi khuyên dùng dimenhydrinat là sự tương tác tiềm năng của nó với các sản phẩm khác qua đường chuyển hóa cytochrome P450. Caffein được chuyển hóa bởi enzym cytochrome P450 1A2, và do đó 8-chlorotheophyllin có thể ức chế hoặc tăng cường đáp ứng của các thuốc thông dụng như diltiazem, verapamil, olanzapin, thuốc viên tránh thai, và omeprazole (Carrillo JA & Benitez J, 2000).

Viêm dạ dày-ruột cấp và say tàu xe
Được xem là an toàn ở liều khuyến nghị, vậy thì chỉ định của dimenhydrinat là gì? Mặc dù ói mửa có thể kết hợp với nhiều bệnh trạng ở trẻ em, nhưng chỉ nên khuyên dùng dimenhydrinat trong các bệnh trạng không có điều trị nào khác. Một nghiên cứu hồi cứu trên 148 trẻ ở khoa cấp cứu và một trung tâm phòng chống độc tuyến tỉnh tại Ontario gợi ý rằng trẻ có những bệnh như viêm màng não, viêm ruột thừa, hen suyễn, viêm phổi, đau đầu migrain, viêm nhiễm vùng chậu, và nhiễm khuẩn đường tiểu rất có nhiều khả năng bị chẩn đoán trễ ≥12 giờ khi được dùng dimenhydrinat (14/21 trẻ [67%] dùng dimenhydrinat so với 43/127 trẻ [34%] không dùng dimenhydrinat, P <0,01) (Anquist KW và css, 1991).
Viêm dạ dày-ruột cấp do virus và buồn nôn hoặc ói mửa do say tàu xe khá phổ biến ở trẻ em. Vì viêm dạ dày-ruột do virus là bệnh tự hạn chế, nên chỉ cần bù nước bằng đường uống hơn là dùng thuốc. Trẻ có bệnh nặng cần được cho nhập viện và truyền dịch, còn dimenhydrinat chỉ vai trò hạn chế.
Trong một nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng, trên 237 trẻ từ 6 tháng đến 6 tuổi bị viêm dạ dày-ruột nhẹ (sút cân <5%, không đi tiêu ra máu, không nhiễm toan, và không cần bù nước đường tĩnh mạch) ở một khoa cấp cứu và phòng khám nhi khoa tại Đức, trẻ được cho dùng dimenhydrinat hoặc giả dược qua đường hậu môn (Uhlig U và cs, 2009). Dimenhydrinat không cải thiện tỉ lệ bù nước bằng đường uống được đo bằng mức sút cân khi tái khám (P = 0,452), nhưng tỉ lệ ói mửa giảm có ý nghĩa được 0,72 lần ói/ngày (KTC 95%: -1,16 đến -0,29 lần ói/ngày). Vì thời gian ói mửa <1 ngày và trẻ có <2 lần ói/ngày, bất kể trẻ thuộc nhánh nghiên cứu nào, nên việc không thấy hiệu quả trên tình trạng mất nước được cho là có liên quan với mức độ tiêu chảy. Như vậy, dimenhydrinat có hiệu quả trong việc giảm ói mửa, nhưng tác dụng này không nên diễn dịch thành tình trạng mất nước được cải thiện. Cần lưu ý điều này khi kê toa nhằm tránh tạo ra sự yên tâm giả tạo cho người chăm sóc bệnh nhi.
Đối với ói mửa do say tàu xe, không có bằng chứng nào cho thấy hiệu quả của dimenhydrinat trên trẻ em. Ở người lớn, dimenhydrinat có hiệu quả hơn giả dược nhưng ẩn chứa nguy cơ tác dụng phụ, như giảm cảm giác thoải mái và giảm sự tỉnh táo tâm lý-vận động (Weinstein SE & Stern RM, 1997; Gordon CR và cs, 2001).

Kết luận
Dimenhydrinat thường được dùng như một thuốc chống nôn ói có thể mua tự do. Hiện không có nhiều dữ liệu về những biến cố bất lợi liên quan với việc sử dụng thuốc này. Vì thuốc có mặt trên thị trường đã lâu với những biến chứng được báo cáo ở mức tối thiểu, xem ra đây là một thuốc an toàn để dùng cho bệnh nhân trẻ em. Điều quan trọng trước khi dùng là tìm kiếm nguyên nhân ói mửa có thể điều trị được, và lưu ý đến tiềm năng tương tác thuốc, tính hiệu quả của thuốc đối với các triệu chứng đang có. Cần có thêm nghiên cứu để xác định những bệnh nào có thể được điều trị một cách hữu hiệu với dimenhydrinat.

Theo Paul Enarson và cs, Canadian Family Physician 2011; 57: 431-432

Download pdf

Hậu quả nhiễm helicobacter pylori ở trẻ em

Mở đầu

Helicobacter pylori (H. pylori) là một trong những tác nhân gây nhiễm khuẩn mạn tính phổ biến nhất trên thế giới, và ước tính hiện nay có khoảng phân nửa dân số thế giới nhiễm loại vi khuẩn này. Tuy vậy, tỉ lệ lưu hành của H. pylori không đồng đều giữa các nước.
Nhiễm H. pylori thường được cho là yếu tố căn nguyên chính của viêm dạ dày và loét tiêu hóa (Suerbaum S & Michetti P, 2002). Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng tình trạng viêm nhiễm do H. pylori gây ra có thể góp phần phát triển adeno-carcinoma dạ dày; hơn nữa, nó còn can dự vào sự phát triển lymphoma tế bào B grade thấp ở loại mô bạch huyết niêm mạc (MALT) (Suerbaum S & Michetti P, 2002; Atherton JC, 2006). Gần đây, vai trò tiềm năng của nhiễm H. pylori trong các bệnh tiêu hóa khác (bệnh trào ngược dạ dày-thực quản) cũng như các bệnh ngoài ruột (thiếu máu thiếu sắt, chậm tăng trưởng, ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, hen và các rối loạn dị ứng) đã được nêu ra (Pellicano R và cs, 2009). Vai trò của H. pylori trong cơ chế bệnh sinh của các biểu hiện ngoài tiêu hóa được đề xuất dựa trên các sự kiện sau: (1) viêm cục bộ có ảnh hưởng toàn thân; (2) nhiễm H. pylori ở dạ dày là một quá trình mạn tính kéo dài nhiều chục năm; và (3) nhiễm khuẩn dai dẳng gây nên các đáp ứng viêm mạn tính và đáp ứng miễn dịch có khả năng dẫn đến những tổn thương tại chỗ hoặc ở xa vị trí nhiễm khuẩn ban đầu (Realdi G và cs, 1999).
Bài này là một tổng quan y văn hiện có về các biểu hiện tiêu hóa và ngoài tiêu hóa của nhiễm H. pylori ở trẻ em. Thông tin được lấy từ các nghiên cứu trong hai thập kỷ qua, qua việc tìm kiếm trên MEDLINE.

Viêm dạ dày và loét dạ dày –tá tràng

Ở trẻ em, nhiễm H. pylori chủ yếu gây viêm hang vị dạ dày và loét tá tràng. Loét dạ dày ở trẻ em ít gặp hơn so với người lớn (Macarthur C và cs, 1995).
Một phân tích gộp những báo cáo đầu tiên (1983-1994) cho thấy tỉ số tỉ lệ (rate ratio) của viêm dạ dày hang vị ở trẻ em nhiễm H. pylori (so với trẻ không bị nhiễm) dao động từ 1,9 đến 71,0 (trung vị: 4,6) (Macarthur C và cs, 1995). Theo đó, tỉ lệ nhiễm H. pylori ở trẻ em bị loét tá tràng khá cao (từ 33%-100%; trung vị: 92%) so với trẻ loét dạ dày (tỉ lệ từ 11%-75%; trung vị: 25%). Như vậy, có bằng chứng vững vàng về sự kết hợp giữa nhiễm H. pylori và viêm hang vị dạ dày và loét tá tràng ở trẻ em; còn bắng chứng về sự kết hợp với loét dạ dày thì kém thuyết phục hơn. Mặc dù vậy, một nghiên cứu hồi cứu trong giai đoạn sau đó (1995-2001) ở Nhật Bản khẳng định tỉ lệ nhiễm H. pylori là rất cao trong viêm hang vị dạ dày và loét tá tràng (theo thứ tự là 98,5% và 83%), và còn chứng minh rằng H. pylori là yếu tố nguy cơ xác định của sự phát triển loét dạ dày, mặc dù tỉ lệ nhiễm không đạt đến 50% (Kato S và cs, 2004).
Gần đây, tỉ lệ loét dạ dày-tá tràng có H. pylori dương tính ở người lớn được nhận thấy đang gia tăng cùng với giảm tỉ lệ nhiễm (Arents NL và cs, 2004). Ở trẻ em, trong y văn còn ít số liệu nghiên cứu xu hướng tăng giảm của tỉ lệ nhiễm H. pylori trong loét dạ dày-tá tràng. Trong một nghiên cứu đa trung tâm tiền cứu ở châu Âu về xuất độ loét dạ dày và tá tràng ở trẻ em, Kalach và cs (2007) nhận thấy loét xảy ra ở 10,6% số trường hợp, nhưng chỉ có 26,7% số này bị nhiễm H. pylori. Từ tháng 1/2001 đến tháng 12/2002, có 518 trẻ được thu thập thông tin trong một nghiên cứu về điều trị H. pylori ở châu Âu (Oderda G và cs, 2007). Khi nội soi, 454 trẻ bị viêm dạ dày kết hợp với H. pylori và 64 trẻ có loét (12,%). Tuy nhiên, lô bệnh nhân này bao gồm cả trẻ em ở Nga, và chúng có tỉ lệ loét tiêu hóa cao hơn rõ rệt (35% so với 6,7% ở trẻ em thuộc phần còn lại của châu Âu, P < 0,0001). Như vậy, rõ ràng tỉ lệ loét có H. pylori dương tính ở trẻ em khác nhau giữa các nước, và điều này không thể giải thích hoàn toàn bằng tỉ lệ nhiễm trong quần thể được nghiên cứu (Oderda G và cs, 2009). Trong một tổng quan hồi cứu (1998-2006) gồm 619 trẻ em Trung Hoa được nội soi đường tiêu hóa trên để thăm khám các triệu chứng tiêu hóa trên, Tam và cs (2009) nhận thấy 43 trẻ (6,9%) có loét tiêu hóa. Trong số 43 bệnh nhân này, có 37 trẻ bị loét tá tràng và 6 trẻ loét dạ dày. Tỉ lệ nhiễm H. pylori là 56,8% ở trẻ loét tá tràng và 33,3% ở trẻ loét dạ dày.

Bệnh dạ dày ác tính

Về bệnh dạ dày ác tính kết hợp với H. pylori ở trẻ em, chỉ có một ít trường hợp lymphoma MALT dạ dày được ghi nhận (Blecker U, 1997; Blecker U và cs, 1995; Ohno Y và cs, 2006), nhưng không có báo cáo nào về adenocarcinoma.

Bảng 1. Tỉ lệ teo dạ dày ở trẻ em

Tác giả (năm)/Nước Hệ thống Sydney cập nhật Tuổi trung bình (giới hạn, năm) Số bệnh nhân Teo dạ dày và/hoặc chuyển sản ruột (%)
H. pylori+ H. pylori – H. pylori+ H. pylori –
Whitney và cs (2000)/Mỹ 10,7 (1-21) 42 0 Hang vị: 16,6/0
Đáy vị: 2,3/0
-/-
Kolho và cs (2000)/Phần Lan Không báo cáo 9,5 (2-16) 71 0 0/0 -/-
Campbell và cs (2001)/Gambia 1,4 (-/-) 21 16 0/0 0/0
Guiraldes và cs (2002)/Chile Không 12,2 (5-17) 59 14 0/0 0/0
Oztürk và cs (2003)/TNK 12,2 (6-16) 18 9 Hang vị: 72,2/77,7 11,1/0
Guarner và cs (2003)/Mỹ – (1-17) 19 45 Hang vị: 52,6/15,7
Đáy vị: 0/5,2
22,2/0
0/0
Usta và cs (2004)/TNK 11,8 (4-17) 175 0 2,2/1,1 -/-
Levine và cs (2004)/Israel Không báo cáo 14,2 (-/-) 55 40 0/0 2,5/0
Ricuarte và cs (2005)/Colombia, Hàn Quốc Không 12,0 (4-18)
14,0 (8-18)
97
10
18
48
16,4
0
*
0
Kato và cs (2006)/Nhật Bản 11,3 (1-16) 131 65 Hang vị: 51,9/4,6
Đáy vị: 34,8/0
10,8/4,6
8,3/4,2
Tutar và cs (2009)/TNK 1,3 (0,1-2,0) 40 112 2,5/0 0/0
Kalach và cs (2009)/Pháp 5,3 (0,1-17,7) 66 553 0/0 0,2/0,2

*Teo niêm mạc, 31% là chuyển sản ruột; 63% là chuyển sản giả môn vị; 6% là cả hai dạng. H. pylori = Helicobacter pylori; TNK = Thổ Nhĩ Kỳ

Có bằng chứng ủng hộ cho sự kết hợp giữa nhiễm H. pylori lâu ngày và teo dạ dày, và chuyển sản ruột với sự phát triển của adenocarcinoma ruột và không biệt hóa ở người lớn (Suerbaum S & Michetti P, 2002). Có ý kiến cho rằng viêm dạ dày mạn tính, teo dạ dày, chuyển sản ruột và ung thư dạ dày phát triển tăng tiến từng bước qua hàng chục năm, trên những người bị nhiễm H. pylori sẵn có các yếu tố bẩm (Correa P và cs, 1990). Tuy vậy, teo dạ dày và chuyển sản ruột cũng đã được mô tả ở trẻ em sống tại những nước có xuất độ ung thư dạ dày cao (Ricuarte O và cs, 2005), và đôi khi được tìm thấy ở trẻ rất nhỏ. Những phát hiện này ủng hộ giả thiết cho rằng các yếu tố di truyền của ký chủ ảnh hưởng đến đáp ứng viêm và miễn dịch với H. pylori có thể quyết định tại sao một số đối tượng bị nhiễm vi khuẩn này lại phát triển các tổn thương tiền ung thư và ung thư dạ dày, trong khi các đối tượng khác không bị (Machado JC và cs, 2003; Dimitrov G & Gottrand F, 2006). Như vậy, rất có thể tỉ lệ teo dạ dày và chuyển sản ruột thay đổi tùy theo các yếu tố địa lý/di truyền và môi trường, như trình bày trong Bảng 1. Tuy vậy, vẫn có vấn đề trong việc chọn mẫu nghiên cứu. Thật vậy, việc truy tìm không có tính hệ thống khi nội soi ở trẻ em để xác định những tình trạng mô học này có thể che lấp tỉ lệ thật sự của chúng (Machado JC và cs, 2003). Phần lớn các nghiên cứu báo cáo đặc điểm mô học của nhiễm H. pylori trên trẻ em đều dùng các mẫu sinh thiết ngẫu nhiên hoặc một số nhỏ là sinh thiết có mục tiêu, được lấy chủ yếu ở hang vị (Guarner J và cs, 2003; Ozen H và cs, 2001). Trong đa số nghiên cứu, việc xác định teo thường tập trung vào sự hiện diện của chuyển sản ruột hoặc không được định nghĩa rõ ràng (Guarner J và cs, 2003).
Trong thực hành lâm sàng, hệ thống Sydney cập nhật đã được sử dụng rộng rãi để phân độ kết quả giải phẫu bệnh dạ dày (mật độ vi khuẩn H. pylori, viêm cấp và mạn, teo và chuyển sản ruột) (Dixon MF và cs, 1996). Mặc dù hệ thống này đã được thẩm định trên bệnh nhân người lớn, nhưng độ biến thiên giữa các quan sát viên vẫn còn là một vấn đề, chủ yếu là trong việc đánh giá teo niêm mạc. Vì vậy, cần thẩm định thêm các thông số về teo từ các mẫu sinh thiết trên trẻ em. Trái lại, biểu mô chuyển sản dễ dàng được bác sĩ giải phẫu bệnh phát hiện, do sự hiện diện của các tế bào hình ly tiết chất nhầy (Dimitrov G & Gottrand F, 2006).

Sinh thiết trên người lớn được khuyến nghị lấy 5 mẫu (2 hang vị, 2 thân vị, và 1 ở khuyết góc [incisura angulus]) (Dixon MF và cs, 1996), nhưng hiện không có sự đồng thuận về số mẫu và vị trí sinh thiết dạ dày tối ưu trên trẻ em. Thực hành lâm sàng trong lĩnh vực này còn nhiều điểm dị biệt, có thể phần nào giải thích cho những tỉ lệ khác nhau của viêm teo dạ dày ở trẻ em (Dimitrov G & Gottrand F, 2006). Trong một nghiên cứu gồm 173 trẻ từ những nước có xuất độ cao ung thư dạ dày, Ricuarte và cs (2005) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của vị trí sinh thiết trong việc xác định sự hiện diện của teo thân vị. Ở trẻ em, teo chỉ được nhận diện trên các mẫu sinh thiết được lấy gần chỗ nối hang vị-thân vị bình thường, phù hợp với quan niệm cho rằng teo tiến triển như một đường biên hang-thân vị tiến dần lên (Ricuarte O và cs, 2005). Do đó, cần nhận diện và mô tả các đặc trưng của diễn biến tự nhiên của viêm dạ dày do H. pylori, bên cạnh việc sinh thiết tập trung vào hang vị và tâm vị, các mẫu sinh thiết có mục tiêu phải bao gồm bờ cong nhỏ và bờ cong lớn của thân vị. Đáng tiếc là các vị trí được khuyến nghị trong hệ thống Sydney cập nhật chỉ có thể nhận diện teo thân vị nếu nó lan rộng.

Nghiên cứu từ những năm 1990 đã chứng minh sự phát triển của lymphoma MALT dạ dày grade thấp có sự kết hợp chặt chẽ với viêm dạ dày mạn do H. pylori. Trên hai lô lớn bệnh nhân người lớn, H. pylori được phát hiện bằng khảo sát mô học ở 92% và 100% số bệnh nhân lymphoma MALT dạ dày (Wotherspoon AC và cs, 1991; Eidt S và cs, 1004). Sự đáp ứng của lymphoma MALT với điều trị kháng sinh thanh toán H. pylori đã thay đổi cách tiếp cận điều trị bệnh này. Tỉ lệ lui bệnh trong y văn thay đổi từ 60% đến 80%, mặc dù tái phát xảy ra ở 5% số trường hợp (Fischbach W và cs, 2004; Thiede C và cs, 1997). Lymphoma MALT thường xảy ra ở người trung niên và cao niên; chỉ một số ít trường hợp được báo cáo ở trẻ em. Vài báo cáo ca bệnh cho thấy sự thoái triển của lymphoma MALT sau khi điều trị thanh toán H. pylori đơn thuần (Blecker U và cs, 1995; Ohno Y và cs, 2006).

Khó tiêu cơ năng

Vai trò của nhiễm H. pylori như là một nguyên nhân của khó tiêu không loét hoặc khó tiêu cơ năng là một trong những đề tài có nhiều ý kiến trái ngược nhau trong y giới từ khi khám phá ra vi khuẩn này.
Khó tiêu rất phổ biến ở trẻ em bị đau bụng mạn tính hoặc tái diễn, với 80% số trẻ có triệu chứng này (Perez ME & Youssef NN, 2007). Sự liên quan giữa đau bụng tái diễn ở tuổi nhỏ và nhiễm H. pylori không được biết rõ. Các nghiên cứu trên trẻ em bị hạn chế do không có một định nghĩa rõ ràng về đau bụng tái diễn hoặc do sử dụng những tiêu chí chẩn đoán không đặc hiệu đối với đau nụng mạn tính. Một phân tích gộp các báo cáo ban đầu (1983-1994) cho thấy tỉ lệ của nhiễm H. pylori ở trẻ có đau bụng tái diễn không nhất quán (dao động từ 0%-81%; trung vị: 22%), với tỉ lệ thấp hơn (từ 0%-9%; trung vị: 6%), ở trẻ hội đủ các tiêu chí Apley (tức là có ít nhất 3 đợt đau bụng riêng biệt đủ nặng để gây gián đoạn sinh hoạt hàng ngày, xảy ra trong một thời gian ≥ 3 tháng) (Macarthur C và cs, 1995).
Trên người lớn, một số nghiên cứu đối chứng cho thấy một sự liên kết mơ hồ giữa sự trú đóng của H. pylori và các triệu chứng khó tiêu (Talley NJ và cs, 1999). Trên trẻ em, có rất ít các nghiên cứu ngẫu nhiên đối chứng về điều trị. Kết quả của hai thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng cho thấy sự cải thiện các triệu chứng lâm sàng sau điều trị nhiễm H. pylori (Frank F và cs, 2000; Uc A & Chong SK, 2002). Tuy vậy, nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược của Ashorn và cs (2004) gợi ý rằng đau bụng tái diễn không phải là một chỉ định để xét nghiệm và điều trị nhiễm H. pylori ở trẻ em. Thật vậy, trong nghiên cứu ấy, sau 52 tuần các triệu chứng khó tiêu được cải thiện ở cùng một mức độ như nhau trên nhóm trẻ được điều trị và nhóm dùng giả dược, bất kể viêm dạ dày có lành hay không (một kết điểm đạt tỉ lệ cao ở nhóm được điều trị thanh toán vi khuẩn). Nhưng do số bệnh nhân được thu nhận quá ít, nên cần thận trọng khi lý giải kết quả của nghiên cứu này. Cần có những nghiên cứu đa trung tâm qui mô lớn trên trẻ em để trả lời dứt khoát câu hỏi liệu có tồn tại một mối liên kết giữa nhiễm H. pylori và đau bụng tái diễn hay không.
Dựa trên một tổng phân tích gồm 38 nghiên cứu từ năm 1966 đến 2009, Spee và cs (2010) không tìm thấy một sự kết hợp nào giữa đau bụng tái diễn (hội đủ các tiêu chí Apley) và nhiễm H. pylori ở trẻ em. Tuy nhiên, các tác giả đã chứng minh rằng trẻ em được gửi khám chuyên khoa tiêu hóa vì đau bụng không đặc hiệu (tức bao gồm cả những trẻ không hội đủ các tiêu chí Apley) hoặc đau vùng thượng vị có nguy cơ nhiễm H. pylori cao gấp 2-3 lần so với trẻ không có những triệu chứng này.

Trào ngược dạ dày-thực quản

Sự tương tác giữa nhiễm H. pylori và bệnh trào ngược dạ dày-thực quản đã được tranh cãi rộng rãi trong y văn suốt thập niên vừa qua, và giả thiết cho rằng thanh toán H. pylori dẫn đến tăng trào nguộc dạ dày-thực quản là đề tài của nhiều bài báo với những kết luận mâu thuẫn nhau trên trẻ em cũng như trên người lớn (Labenz J và cs, 1997; Vakil N và cs, 2000; Fallone CA và cs, 2000; Wu JC và cs, 2000; Richter JE, 2004). Có ít số liệu trên trẻ em vì tỉ lệ nhiễm H. pylori thấp và không có nghiên cứu ngẫu nhiên nào được thực hiện; do vậy, ảnh hưởng của việc thanh toán H. pylori đối với bệnh trào ngược dạ dày-thực quản cần được rút ra từ những nghiên cứu trên người lớn.
H. pylori được nhận thấy có tương quan nghịch với tỉ lệ lưu hành bệnh trào ngược dạ dày-thực quản, và một số nghiên cứu cho thấy sự tăng nặng của viêm thực quản sau khi thanh toán vi khuẩn (Richter JE, 2004; Laine L & Sugg J, 2002; Schwizer W và cs, 2001). Các cơ chế được đề xuất bao gồm sự hiện diện của viêm thân vị thể teo hoặc lan rộng dẫn đến tăng xuất lượng acid sau khi thanh toán vi khuẩn; giảm tác dụng đệm do tiệt trừ H. pylori, vốn sản xuất ra ammoniac thông qua urease của vi khuẩn; trào ngược bị che lấp bởi các thuốc trung hòa acid dùng cho bệnh liên quan với H. pylori; và tăng cảm giác thèm ăn với trào ngược qua trung gian tăng cân. Có nhiều ý kiến phản đối những kết quả quan sát này, vì một số nghiên cứu không tìm thấy sự kết hợp giữa việc thanh toán H. pylori và bệnh trào ngược (Levine A và cs, 2004; Moayyedi P và cs, 2001; Rosioru C và cs, 1993; McColl KE và cs, 2000).
Phần lớn các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của thanh toán H. pylori trên trào ngược ở người lớn đều sử dụng những quần thể chọn lọc như bệnh nhân loét tá tràng hoặc bệnh nhân trào ngược dạ dày-thực quản trước khi thanh toán. Những yếu tố nguy cơ được tìm thấy trên người lớn, như viêm teo dạ dày, loét tá tràng, hoặc viêm thực quản, có thể ảnh hưởng đến kết cục của nghiên cứu. Những yếu tố này ít gặp ở trẻ em, do đó những kết quả ấy có thể không có ý nghĩa đối với việc quyết định thanh toán H. pylori nếu tìm thấy trên trẻ em (Levine A và cs, 2004) .
Dent (2001) cho rằng việc chọn quần thể nghiên cứu có thể góp phần quyết định ảnh hưởng của thanh toán H. pylori trên bệnh trào ngược dạ dày-thực quản. Trong viêm hang vị dạ dày với niêm mạc thân vị được bảo toàn, sự phân tiết acid là một đáp ứng gia tăng, vì vậy làm tăng hư tổn tá tràng hoặc thực quản. Trên những bệnh nhân này, việc thanh toán vi khuẩn sẽ cải thiện hoặc không ảnh hưởng bệnh trào ngược dạ dày-thực quản. Giả thiết này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu khác cho thấy sự cải thiện triệu chứng trào ngược trên bệnh nhân loét tá tràng (McColl KE và cs, 2000; Moayyedi P và cs, 2000). Tuy nhiên, trên bệnh nhân viêm teo dạ dày hoặc viêm thân vị nặng, thanh toán H. pylori có thể làm tăng phân tiết acid. Trẻ em và thiếu niên có nhiều khả năng đáp ứng như nhóm thứ nhất với viêm dạ dày chủ yếu là ở hang vị (Levine A và cs, 2004).
Nguy cơ và lợi ích của việc thanh toán H. pylori không được xác định rõ trên bệnh nhân viêm dạ dày đơn thuần, và thay đổi tùy theo độ nặng và loại hình viêm dạ dày (Dent J, 2001). Mặc dù đây là nhóm bệnh nhân có nhiều khả năng phát triển viêm thực quản trào ngược, nhưng nguy cơ của bệnh này không trội bằng nguy cơ của nhiễm H. pylori liên tục. Viêm thực quản trào ngược sau thanh toán H. pylori được cho là ẩn chứa nguy cơ nhỏ hơn, và đặc biệt là không dẫn đến chuyển sản ruột. Trái lại, nguy cơ của nhiễm H. pylori liên tục tương đối cao trên bệnh nhân đã có loét tá tràng, dạ dày hoặc loét dạ dày-tá tràng mạn tính (Dent J, 2001). Điều chắc chắn là H. pylori là một yếu tố nguy cơ quan trọng của adenocarcinoma dạ dày ngoài tâm vị, và trẻ em nhiễm H. pylori có nguy cơ phát triển tân sản dạ dày cao ít nhất gấp 5 lần về sau này. Nguy cơ này có nhiều khả năng đảo ngược khi thanh toán H. pylori (Moayyedi P và cs, 2001). Trong một nghiên cứu trên người lớn có nguy cơ cao, nguy cơ ung thư dạ dày không giảm khi kết thúc 7,5 năm theo dõi ở người có H. pylori mà trước đó đã đùng liệu pháp thanh toán vi khuẩn (Wong BC và cs, 2004). Tuy vậy, trong một phân tích trên một phân nhóm bệnh nhân không có tổn thương tiền ung thư lúc ban đầu, nguy cơ ung thư giảm rõ rệt. Có những nghiên cứu khác gợi ý rằng có thể đề phòng ung thư dạ dày trên người bị nhiễm vi khuẩn nhưng không có tổn thương tiền ung thư (Leung WK và cs, 2004; Ley C và cs, 2004). Do đó, trẻ em có thể là các đối tượng đích trong nỗ lực đề phòng sự phát triển ung thư dạ dày về sau.

Thiếu máu thiếu sắt

Ngoài những nguyên nhân đã biết của thiếu máu thiếu sắt, sự kết hợp giữa H. pylori và thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em đã được nhận thấy trong hơn 20 năm qua (Baggett HC và cs, 2006; Baysoy G và cs, 2004; Blecker U và cs, 1999; Choe YH và cs, 1999; Dufour C và cs, 1993). Tuy vậy, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề nhiễm H. pylori có quan hệ nhân-quả với thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em hay không và liệu điều trị thanh toán H. pylori có cải thiện được dự trữ sắt hoặc chấm dứt thiếu máu thiếu sắt hay không. Năm 1991, Blecker U và cs đã mô tả sự kết hợp giữa nhiễm H. pylori và thiếu máu thiếu sắt do mất máu vi thể trên một bé gái 15 tuổi bị viêm dạ dày xuất huyết mạn tính dương tính với H. pylori, nhưng không có triệu chứng dạ dày-ruột. Hai năm sau, Dufour và cs báo cáo một em bé 7 tuổi bị viêm hang vị mạn tính kết hợp với H. pylori nhưng không có bằng chứng xuất huyết hoặc triệu chứng lâm sàng nào ngoài thiếu máu thiếu sắt, tình trạng này không chữa được bằng các chế phẩm sắt dạng uống và chỉ thuyên giảm sau khi thanh toán H. pylori. Sau những báo cáo ấy, có những nghiên cứu nhận thấy sự kết hợp giữa nhiễm H. pylori và thiếu máu thiếu sắt trẻ em không rõ nguyên nhân hoặc khó trị, và cho thấy sự cải thiện của dự trữ sắt và chứng thiếu máu sau khi thanh toán H. pylori thành công (Ashorn M và cs, 2001; Barabino A và cs, 1999; Carnicer J và cs, 1997; Kostaki M và cs, 2003). Thế nhưng, một số bác sĩ nhi khoa cho rằng H. pylori là nguyên nhân của thiếu máu thiếu sắt kháng trị với chế phẩm sắt dạng uống (Barabino A và cs, 1999; Russo-Mancuso G và cs, 2003). Như vậy, những nghiên cứu trên ủng hộ cho một ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng của nhiễm H. pylori trên dự trữ sắt toàn thân và đã dẫn đến khuyến nghị thanh toán H. pylori trên người bị nhiễm có thiếu máu thiếu sắt không rõ nguyên nhân (Malfertheiner P và cs, 2007; Rowland M và cs, 1999). Tuy nhiên, cỡ mẫu nhỏ, thiếu nhóm chứng, và các vấn đề khác trong phương pháp nghiên cứu, kể cả việc sử dụng các test được kiểm chứng liên quan với sinh thiết để đánh giá tình trạng nhiễm H. pylori, là các yếu tố đã hạn chế việc lý giải và khái quát hóa các kết quả của những nghiên cứu này trên trẻ em.

Bảng 2. Các thử nghiệm ngẫu nhiên về thanh toán Helicobacter pylori trong thiếu máu thiếu sắt và thiếu sắt ở trẻ em

Tác giả (năm)/Nước Số trẻ thiếu máu thiếu sắt/H. pylori Theo dõi
(Số trẻ)
Kết cục
Thiếu máu thiếu sắt Thiếu sắt
Choe và cs (1999) /Hàn Quốc 43/25 8 tuần (18) Tăng Hb với: điều trị thanh toán + sắt, điều trị thanh toán + giả dược so với sắt + giả dược (= 0,0086) Khác biệt không có ý nghĩa về nồng độ sắt hoặc ferritin huyết thanh
Sarker và cs (2008)/ Bangladesh 260/200 3 tháng (260) Tỉ lệ TMTS dai dẳng với: điều trị thanh toán + sắt: 11%; điều trị thanh toán đơn độc: 33%; sắt đơn độc: 0%; giả dược: 45% Tỉ lệ TS dai dẳng với: điều trị thanh toán + sắt: 19%; điều trị thanh toán đơn độc: 65%; sắt đơn độc: 7%; giả dược: 78%
Gessner và cs (2006)/ Alaska 219/219 14 tháng (201) Tỉ lệ TMTS dai dẳng với: điều trị thanh toán + sắt: 22%; sắt đơn độc: 14% Tỉ lệ TS dai dẳng với: điều trị thanh toán + sắt: 65%; sắt đơn độc: 72%
Fagan và cs (2009)/ Alaska 219/219 40 tháng (176) Tỉ lệ TMTS dai dẳng với: điều trị thanh toán + sắt: 5%; sắt đơn độc: 19% Tỉ lệ TS dai dẳng với: điều trị thanh toán + sắt: 52%; sắt đơn độc: 58%

Hb = hemoglobin; TMTS = thiếu máu thiếu sắt; TS = thiếu sắt; H. pylori = Helicobacter pylori.

Chỉ có bốn thử nghiệm ngẫu nhiên trong dân số về ảnh hưởng của điều trị nhiễm H. pylori trên thiếu máu thiếu sắt được thực hiện trên trẻ em (Choe YH và cs, 1999; Fagan RP và cs, 2009; Gessner BD và cs, 2006; Sarker SA và cs, 2008), và được trình bày trong Bảng 2. Ba nghiên cứu trong số này không có nhóm giả dược thật sự. Choe và cs (1999) đã chứng minh một ảnh hưởng có lợi của liệu pháp thanh toán H. pylori cộng với sắt hoặc giả dược trong việc làm tăng nồng độ hemoglobin. Tuy vậy, không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm nghiên cứu về nồng độ sắt huyết thanh, khả năng gắn sắt toàn phần, và nồng độ ferritin khi tái khám sau 8 tuần. Trên một thuần tập tương đối lớn gồm những trẻ em ở Bangladesh bị thiếu máu thiếu sắt, Sarker và cs (2008) đã chứng minh một sự cải thiện tương tự của tình trạng thiếu máu và thiếu sắt, với liệu pháp chống H. pylori cộng với sắt, so với liệu pháp sắt đơn độc. Do vậy, sự cải thiện tình trạng chất sắt ở trẻ em được dùng liệu pháp phối hợp có thể qui cho tác dụng của sắt hơn là của liệu pháp chống H. pylori. Kết quả trên trẻ em Bangladesh đã củng cố các kết quả của nghiên cứu ở vùng nông thôn Alaska, cho thấy điều trị và giải quyết tình trạng nhiễm H. pylori không làm giảm đáng kể mức độ thiếu sắt hoặc thiếu máu nhẹ sau khi khởi trị 14 tháng, mặc dù tỉ lệ tái nhiễm tương đối thấp sau khi đã điều trị dứt điểm nhiễm khuẩn ban đầu (Gessner BD và cs, 2006). Sau khi khởi trị 40 tháng, đánh giá theo dõi thêm cho thấy việc giải quyết tình trạng nhiễm H. pylori đã làm giảm đáng kể tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt nhẹ nhưng chỉ cải thiện tình trạng sắt ở mức khiêm tốn (Fagan RP và cs, 2009).
Làm thế nào viêm dạ dày do H. pylori có thể gây thiếu máu thiếu sắt? Một số cơ chế lý thuyết đã được đề xuất để giải thích mối quan hệ có thể có giữa nhiễm H. pylori và giảm dự trữ sắt. Rõ ràng là mất máu dạ dày-ruột mạn tính không phải là thủ phạm, vì phần lớn các báo cáo từng ca và hàng loạt ca bệnh không tìm thấy tổn thương xuất huyết nào khi nội soi, và kết quả xét nghiệm phân tìm máu ẩn đều âm tính (DuBois S & Kearney DJ, 2005). Một cách giải thích khác cho mối quan hệ giữa nhiễm H. pylori và thiếu máu thiếu sắt là ảnh hưởng có thể có của viêm dạ dày do H. pylori trên sự phân tiết acid dạ dày và sự hấp thu sắt. Sắt ngoài cấu trúc heme (nonheme iron) chiếm 80% lượng sắt trong chế độ ăn ở các nước công nghiệp. Điều kiện để loại sắt này được hấp thu hữu hiệu là hàm lượng acid hydrochloric trong dịch vị. Phản ứng khử sắt hóa trị ba (sắt tam) thành sắt hóa trị hai (sắt nhị) phụ thuộc vào pH dịch vị, và dạng sắt nhị được dễ dàng vận chuyển qua màng tế bào (Lombard M và cs, 1997). Một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự hấp thu sắt là acid ascorbic, chất này tác động bằng hai cách: thúc đẩy phản ứng khử thành dạng sắt nhị, và hình thành một phức hợp phân tử có thể hấp thu được với sắt tam, vốn không tan ở pH >5 (Charlton RW & Bothwell TH, 1983). Nhiễm H. pylori mạn tính gây teo biểu mô tuyến và niêm mạc đáy vị có thể làm giảm tiết acid dạ dày. Người ta đã chứng minh rằng bệnh nhân người lớn bị thiếu máu thiếu sắt và nhiễm H. pylori có nhiều khả năng bị viêm thân vị dạ dày, với giảm phân tiết acid dạ dày và tăng pH dạ dày, làm giảm hấp thu sắt (Capurso G và cs. 2001). Không có số liệu tương tự ở trẻ em.
Một cơ chế giả định khác là H. pylori có thể dẫn đến thiếu máu thiếu sắt do chúng chiếm giữ và sử dụng sắt, cạnh tranh với ký chủ người (DuBois S & Kearney DJ, 2005). Như nhiều vi khuẩn khác, H. pylori cần đến sắt như là một yếu tố tăng trưởng, và vi khuẩn có một protein 19-kDa gắn sắt giống như ferritin, được xem là có vai trò quan trọng trong việc dự trữ sắt thừa được vi khuẩn chiếm giữ (Doig P và cs, 1993). Một cơ chế khác của thiếu máu thiếu sắt trên người bị nhiễm H. pylori có thể là sự giam hãm sắt trong lactoferrin ở niêm mạc dạ dày, và sự thu nạp sắt bởi H. pylori. Lactoferrin là một glycoprotein gắn sắt được tìm thấy trong các dịch cơ thể, và sự phân tiết chất này ở niêm mạc dạ dày dường như chịu ảnh hưởng của một số tín hiệu từ H. pylori (Choe YH và cs, 2003). Có vẻ như H. pylori hấp thu sắt từ lactoferrin qua một protein gắn lactoferrin chuyên biệt được H. pylori biểu hiện (DuBois S & Kearney DJ, 2005). Nồng độ lactoferrin trong niêm mạc dạ dày của bệnh nhân nhiễm H. pylori bị thiếu máu thiếu sắt cao hơn một cách có ý nghĩa so với bệnh nhân không thiếu máu H. pylori âm tính, bệnh nhân không thiếu máu H. pylori dương tính, và bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt có H. pylori âm tính (Choe YH và cs, 2003).
Lĩnh vực này cần được nghiên cứu thêm trong tương lai, với các nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược để đánh giá tác dụng dài hạn của việc thanh toán H. pylori trên trẻ em thiếu máu thiếu sắt. Ngoài ra, những nghiên cứu ấy cần đánh giá tác dụng của điều trị H. pylori trên những quần thể trẻ em khác nhau, như trẻ có và không có các triệu chứng tiêu hóa đi kèm, và trẻ có bệnh thiếu máu thiếu sắt ở những độ nặng khác nhau.
Dựa trên kiến thức hiện thời, trẻ bị thiếu máu thiếu sắt lần đầu và không có biến chứng cần được điều trị từ đầu với bổ sung sắt đơn thuần, bất kể có nhiễm H. pylori hay không. Có thể xem xét thanh toán H. pylori trong những trường hợp kháng trị với bổ sung sắt và trong trường hợp hay có những đợt tái phát, giả sử rằng đã loại trừ những nguyên nhân khác như bệnh tiêu chảy phân mỡ và viêm đường ruột. Một công trình nghiên cứu đáng quan tâm của Memeo và cs (2005) đã cho thấy xuất độ khá phổ biến của sự bành trướng tế bào lymphô trong biểu mô tá tràng trên bệnh nhân viêm dạ dày do H. pylori, và sự trùng lặp đáng kể về số tế bào lymphô trong biểu mô cũng như hình thức phân bố tế bào đã mô tả trong bệnh tiêu chảy phân mỡ và các bệnh khác ở ruột non.

Chậm tăng trưởng

Bằng chứng hiện có về nhiễm H. pylori và ảnh hưởng của nó trên sự tăng trưởng ở trẻ em còn nhiều mâu thuẫn. Bảng 3 trình bày các nghiên cứu cắt ngang cung cấp bằng chứng ủng hộ hoặc bác bỏ sự kết hợp này.
Nghiên cứu cắt ngang của Perri và cs (1997) ở Ý gợi ý rằng nhiễm H. pylori (được chẩn đoán bằng test urê hơi thở) kết hợp với chậm tăng trưởng ở những trẻ lớn, thuộc tầng lớp nghèo, và gia đình đông người. Kết quả của nghiên cứu này phù hợp với giả thiết cho rằng nhiễm H. pylori là một trong những yếu tố môi trường có khả năng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng. Nghiên cứu cắt ngang của Richter và cs (2001) trên một số lớn trẻ em 5-7 tuổi ở Đức gợi ý nhiễm H. pylori (được chẩn đoán bằng test urê hơi thở) kết hợp với chậm tăng trưởng, mặc dù điều kiện kinh tế-xã hội tương tự nhau giữa trẻ có H. pylori và trẻ không có H. pylori. Tương tự , Ertem và cs (2002) cũng cho thấy H. pylori kết hợp với hiện tượng chậm lớn thông qua các cơ chế độc lập với điều kiện sống thiếu thốn.

Bảng 3. Các nghiên cứu cắt ngang về sự kết hợp giữa nhiễm Helicobacter pylori và chậm tăng trưởng

Tác giả (năm)/Nước Tổng số BN
(H. pylori +)
Tuổi (giới hạn, năm) Test chẩn đoán Kết luận
Perri và cs (1997)/Ý 216 (49) 3-14 Test urê hơi thở NhiễmH. pylori kết hợp với chậm tăng trưởng và tình trạng kinh tế-xã hội kém
Oderda và cs (1998)/Ý 134 thấp bé (27)
134 đối chứng (18)
5-13
5-13
Huyết thanh học Không kết hợp với vóc người thấp bé
Quiñonez và cs (1999)/ Guatemala 211 (107) 5-10 Huyết thanh học Không kết hợp với chiều cao theo tuổi và tình trạng dinh dưỡng
Choe và cs (2000)/ Hàn Quốc 375 (63) 10-15 Huyết thanh học NhiễmH. pylori  đi kèm với TMTS kết hợp với dậy thì muộn (nhiều hơn là bản thân nhiễm H. pylori)
Richter và cs (2001)/ Đức 3315 (213) 5-7 Test urê hơi thở NhiễmH. pylori kết hợp với chậm tăng trưởng
Ertem và cs (2002)/ Thổ Nhĩ Kỳ 327 (162) 3-12 Test urê hơi thở NhiễmH. pylori kết hợp với chậm tăng trưởng một cách độc lập với điều kiện sinh sống thiếu thốn
Sood và cs (2005)/ Vương quốc Anh 257 (97) Test urê hơi thở Không kết hợp với chỉ số z của chiều cao và cân nặng, sau khi hiệu chỉnh tình trạng kinh tế-xã hội và chủng tộc
Süoglu và cs (2007)/ Thổ Nhĩ Kỳ 70 (35) 4-16 Nội soi NhiễmH. pylori và TMTS có ảnh hưởng trên chỉ số z của chiều cao sau khi hiệu chình với tình trạng kinh tế-xã hội
Mohammad và cs (2008)/ Ai Cập 286 (208) 6-15 Test urê hơi thở NhiễmH. pylori ảnh hưởng cân nặng và chiều cao
Soylu và cs (2008)/ Thổ Nhĩ Kỳ 108 có khó tiêu (57) 7-17 Nội soi Không kết hợp với số đo nhân trắc. Nhưng trẻ khó tiêu có tình trạng dinh dưỡng kém hơn so với 50 trẻ đối chứng khỏe mạnh từ 8-17 tuổi, bất kể tình trạng nhiễm H. pylori
Cherian và cs  (2009)/ Úc 182 (149) < 16 Kháng nguyên trong phân Không kết hợp với BMI hoặc các số đo nhân trắc khác
Gulcan và cs (2010)/ Thổ Nhĩ Kỳ 181 có đau bụng tái diễn (121)

309 không triệu chứng (110)

6-15

6-15

Huyết thanh học, 139 Đau bụng tái diễn kết hợp với hư tổn niêm mạc dạ dày có ảnh hưởng tiêu cực trên BMI một cách độc lập với nhiễm H. pylori
Đau bụng tái diễn do nhiễm H. pylori ảnh hưởng đến BMI và sự tăng trưởng tuyến tính

BMI = chỉ số thân khối; TMTS = thiếu máu thiếu sắt; H. pylori = Helicobacter pylori

Các tác giả khác gợi ý rằng sự kìm hãm tăng trưởng được báo cáo ở trẻ nhiễm H. pylori có thể do các yếu tố kinh tế-xã hội, di truyền và môi trường. Trong một tổng quan hồi cứu hồ sơ bệnh án của trẻ có chứng khó tiêu tại một trung tâm chuyên khoa tiêu hóa nhi ở Vương quốc Anh, Sood và cs (2005) nhận thấy trẻ có chứng khó tiêu và nhiễm H. pylori (được chẩn đoán bằng test urê hơi thở) lùn hơn và nhẹ cân hơn so với bệnh nhi có triệu chứng tương tự nhưng không nhiễm H. pylori. Các tác giả kết luận rằng sự khác biệt của số đo nhân trắc có thể do các yếu tố kinh tế-xã hội và chủng tộc hơn là do nhiễm H. pylori. Thế nhưng, trong một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện ở trẻ em Thổ Nhĩ Kỳ có chứng khó tiêu được nội soi sinh thiết dạ dày để chẩn đoán nhiễm H. pylori, và một nhóm chứng tương xứng về tuổi và giới tính, Soylu và Ozturk (2008) nhận thấy trẻ bị khó tiêu có hoặc không có nhiễm H. pylori đều ở tình trạng dinh dưỡng kém hơn so với trẻ đối chứng khỏe mạnh. Các tác giả kết luận rằng nhiễm H. pylori, với tính cách là một nguyên nhân quan trọng của chứng khó tiêu, có thể gây suy dinh dưỡng thứ phát sau giảm thu nạp năng lượng vì khó tiêu.
Trong một nghiên cứu bệnh-chứng ở trẻ em từ 5-13 tuổi có chiều cao dưới bách phân vị thứ ba, được ghép cặp với trẻ cùng tuổi và cùng giới có chiều cao trên bách phân vị thứ 25, Oderda và cs (1998) nhận thấy nhiễm H. pylori (được chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học) không phải là một yếu tố nguy cơ của vóc người thấp bé, và chiều cao thấp có liên quan với các yếu tố di truyền như chiều cao của cha mẹ và các yếu tố hỗn hợp di truyền-môi trường như cân nặng lúc sinh. Mức sống thấp cũng là một yếu tố có ý nghĩa. Trong một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên trẻ em 5-10 tuổi tại một trường nữ tiểu học công lập ở Guatemala City, Quiñonez và cs (1999) đã khảo sát ảnh hưởng của nhiễm H. pylori (được chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học) trên các thông số nhân trắc dinh dưỡng (cân nặng so với chiều cao và chiều cao so với tuổi). Sau khi hiệu chỉnh các biến số xã hội-nhân khẩu học, các tác giả không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa nào trong các thông số dinh dưỡng giữa trẻ bị nhiễm và trẻ không bị nhiễm H. pylori. Trong một nghiên cứu cắt ngang khác trên trẻ em Thổ Nhĩ Kỳ từ 4-16 tuổi, được nội soi đường tiêu hóa trên vì đau bụng tái diễn và khó tiêu, Süoglu và cs (2007) nhận thấy ảnh hưởng của nhiễm H. pylori trên độ lệch chuẩn của chiều cao trung bình theo tuổi không khác biệt có ý nghĩa thống kê sau khi hiệu chỉnh tình trạng bú mẹ, thiếu máu thiếu sắt và tầng lớp kinh tế-xã hội. Trái lại, ngay cả sau khi hiệu chỉnh với tầng lớp kinh tế-xã hội, nhiễm H. pylori vẫn là biến số duy nhất và quan trọng nhất có ảnh hưởng trên độ lệch chuẩn của cân nặng trung bình. Trên trẻ có H. pylori dương tính cũng như trẻ có H. pylori âm tính, thiếu máu thiếu sắt không có ảnh hưởng có ý nghĩa trên các số đo nhân trắc (Süoglu OD và cs, 2007). Tuy nhiên, khi có sự hiện diện của H. pylori và thiếu máu thiếu sắt, cân nặng trung bình tỏ ra thấp hơn có ý nghĩa so với trẻ không bị thiếu máu thiếu sắt không nhiễm H. pylori.
Cũng có những nghiên cứu dọc ủng hộ giả thiết cho rằng nhiễm H. pylori có thể ảnh hưởng tốc độ tăng trưởng của trẻ em. Thomas và cs (2004) đã thực hiện liên tiếp hai nghiên cứu dọc thuần tập tiền cứu ở Gambia, và thấy rằng, trong cả hai thuần tập, trẻ em sớm bị nhiễm H. pylori có các trị số Z của chiều cao theo tuổi và cân nặng theo tuổi ở cuối thời kỳ nhũ nhi thấp hơn so với trẻ đồng trang lứa. Không tìm thấy biến số kinh tế-xã hội hoặc nhân khẩu học gây nhiễu nào để giải thích cho kết quả này, và sự thiếu cân không còn phát hiện được nữa khi trẻ được 5-8 tuỗi. Các tác giả kết luận rằng sự trú đóng H. pylori ở tuổi dễ bị tổn thương nhất có thể dẫn đến suy dinh dưỡng và chậm tăng trưởng ở trẻ còn bú tại những nước như Gambia (Thomas JE và cs, 2004). Trong nghiên cứu dọc của Bravo và cs (2003), trẻ em thuộc tầng lớp trung lưu dưới ở Colombia, từ 1-5 tuổi, có sức khỏe tốt, xét nghiệm âm tính với test urê hơi thở lúc ban đầu, được theo dõi suốt 2,5 năm sau bằng các số đo nhân trắc mỗi 2 tháng, và làm test urê hơi thở mỗi 4 tháng. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng giảm rõ rệt ở trẻ nhiễm H. pylori, độc lập với các biến số kinh tế-xã hội hoặc điều kiện sống đông đúc.

Tương tự, trong một nghiên cứu tiền cứu trên trẻ em Colombia từ 1-5 tuổi, có sức khỏe tốt, Mera và cs (2006) đã khảo sát xem việc mới nhiễm H. pylori có ảnh hưởng đến chiều cao và cân nặng của trẻ hay không trong vòng 16 tháng, bằng cách thử test urê hơi thở và đo đạc nhân trắc mỗi 2-4 tháng. Các tác giả nhận thấy ảnh hưởng rõ rệt của việc mới nhiễm trên tốc độ tăng
trưởng chiều cao ngay sau khi được chẩn đoán và tiếp tục có ý nghĩa kéo dài đến 6 tháng sau nhiễm, và đạt mức có ý nghĩa giáp biên lúc 8 tháng sau nhiễm. Trẻ bị nhiễm không có sự tăng trưởng bắt kịp, và tình trạng sinh sống chật chội làm giảm tốc độ tăng trưởng tuyến tính. So với trẻ không bị nhiễm, trẻ mới nhiễm cũng bị giảm cân khi tái khám lần đầu, nhưng không đạt mức có ý nghĩa thống kê lúc tái khám 4 tháng sau nhiễm. Cân nặng của trẻ không có sự tăng trưởng bắt kịp. Các tác giả kết luận rằng H. pylori có ảnh hưởng tiêu cực không phải nhất thời trên chiều cao và cân nặng ở trẻ bị nhiễm, bất kể tuổi và thời điểm nhiễm khuẩn.

Gộp chung lại, những nghiên cứu nhằm xác định có hay không có sự kết hợp giữa H. pylori và tăng trưởng nói trên có những hạn chế tiềm năng. Trước tiên, phần lớn là nghiên cứu cắt ngang hoặc hồi cứu và vì vậy không thể đánh giá ảnh hưởng của nhiễm khuẩn mới trên tốc độ tăng trưởng. Thứ hai, định nghĩa tình trạng kinh tế-xã hội là khá phức tạp và trong phần lớn các nghiên cứu không có bộ thông số nào được mô tả đầy đủ. Thứ ba, một số nghiên cứu đã sử dụng phương pháp huyết thanh học để chẩn đoán nhiễm H. pylori. Tuy nhiên, huyết thanh học không cho biết là nhiễm khuẩn đang hoạt động hay là nhiễm khuẩn cũ. Ngay cả trên bệnh nhân được điều trị và chữa khỏi tình trạng nhiễm H. pylori, kháng thể IgG vẫn tồn tại trong nhiều tháng và có thể nhiều năm. Các xét nghiệm huyết thanh học có độ nhạy và độ đặc hiệu ở nhiều mức khác nhau khi được dùng trên những quần thể khác nhau, đặc biệt là trẻ em (Khanna B và cs, 1998). Thứ tư, trong các nghiên cứu trong cộng đồng, ví dụ nghiên cứu có lấy máu xét nghiệm, tỉ lệ tham gia hiếm khi cao hơn 50% (Quiñonez JM và cs, 1999; Begue RE và cs, 1995). Đây cũng có thể là trường hợp của các nghiên cứu có nội soi tiêu hóa. Như vậy chúng ta không có thông tin nào về số trẻ không tham gia trong một số nghiên cứu nói trên; và vì thế không thể ước lượng nếu có sai số hệ thống trong kết quả hoặc suy rộng kết quả cho các quần thể khác.

Trong tương lai, cần có những nghiên cứu trong lĩnh vực này để làm sáng tỏ tầm quan trọng của các yếu tố vừa kể. Hy vọng rằng nếu nhiễm H. pylori là nguyên nhân chính kìm hãm sự tăng trưởng thì tốc độ tăng trưởng sẽ được cải thiện sau khi thanh toán H. pylori.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn (ITP) là một bệnh tự miễn, với số lượng tiểu cầu trong máu thấp do sự phá hủy những tiểu cầu nhạy cảm kháng thể trong hệ lưới nội mô (Blanchette VS & Price V, 2003). Cơ chế châm ngòi sản xuất các tự kháng thể tiểu cầu vẫn chưa được hiểu rõ. Thiếu tiểu cầu dai dẳng >6 tháng là một thể mạn tính của rối loạn này (cITP), có thể cải thiện khi thanh toán H. pylori trong niêm mạc dạ dày.

Một số nghiên cứu trên người lớn đã báo cáo số lượng tiểu cầu được cải thiện trên bệnh nhân có H. pylori dương tính sau khi dùng liệu pháp chuẩn ba thuốc để thanh toán H. pylori (Ando K và cs, 2003; Emilia G và cs, 2001; Gasbarrini A và cs, 1998; Hino M và cs, 2003; Veneri D và cs, 2002). Một tổng phân tích gồm 13 nghiên cứu thuần tập trên người lớn bị cITP, với số liệu từ 193 bệnh nhân, cho thấy 52% số bệnh nhân có đáp ứng sau khi điều trị thanh toán H. pylori (Jackson S và cs, 2005). Một tổng quan có hệ thống gần đây gồm 24 nghiên cứu, với số liệu từ 696 bệnh nhân người lớn bị cITP, cho thấy 50,3% số bệnh nhân có đáp ứng về số lượng tiểu cầu sau khi thanh toán H. pylori (Stasi R và cs, 2009). Các thuần tập ở Nhật Bản và Ý có tỉ lệ đáp ứng cao hơn so với các nước khác (Jarque I và cs, 2001; Michel M và cs, 2004). Có vài thuyết được đề xuất để giải thích sự đáp ứng của tiểu cầu với liệu pháp chống H. pylori: sự giống nhau về mặt kháng nguyên giữa H. pylori cagA và các kháng nguyên glycoprotein tiểu cầu, sự kết gắn của H. pylori với yếu tố von Willebrand, và tác dụng điều biến miễn dịch của các kháng sinh (ví dụ macrolide) được dùng để thanh toán H. pylori. Có ý kiến cho rằng các tự kháng thể tiểu cầu được sản xuất bởi dòng tế bào B tự phản ứng do sự kích thích mạn tính của H. pylori (Jackson S và cs, 2005; Franchini M &Veneri D , 2004). Độc tính tương đối của liệu pháp ba thuốc so với liệu pháp ITP chuẩn khiến cho nó trở thành một lựa chọn hấp dẫn và nói chung là an toàn ở người lớn. Tuy nhiên, cần có những thử nghiệm lâm sàng lớn trên bệnh nhân người lớn thuộc nhiều sắc dân khác nhau để xác định tỉ lệ đáp ứng và cơ chế đáp ứng của tiểu cầu với liệu pháp thanh toán H. pylori.

Ở trẻ em, diễn biến tự nhiên của cITP khác hẳn với người lớn. Sự hồi phục tự nhiên xảy ra ở một phần ba số trẻ bị cITP từ vài tháng đến nhiều năm sau khi được chẩn đoán, trong khi đó chỉ 5% số bệnh nhân người lớn hồi phục (George JN và cs, 1996). Như vậy, ảnh hưởng của việc thanh toán H. pylori trên cITP ở trẻ em sẽ khác với người lớn. Đề tài này chỉ được một số ít nghiên cứu khảo sát với cỡ mẫu nhỏ và kết quả trái ngược nhau. Mặt khác, khó so sánh kết quả của
những nghiên cứu trên trẻ em vì tỉ lệ nhiễm H. pylori và phương pháp chẩn đoán rất khác nhau (Kühne T & Michaels LA, 2008). Đáng lưu ý là trên trẻ em có cITP, không có nghiên cứu nào đánh giá tình trạng nhiễm H. pylori bằng nội soi tiêu hóa khi khám lần đầu cũng như tái khám theo dõi.

Trong một nghiên cứu ở Đài Loan, Jaing và cs (2003) đã đánh giá 22 trẻ có cITP, trong đó có 9 trẻ nhiễm H. pylori và được điều trị với liệu pháp ba thuốc (gồm clarithromycin, amoxicillin, và thuốc ức chế bơm proton) trong một tuần. Có 5/9 bệnh nhi (55,6%) lui bệnh một phần hoặc hoàn toàn trong một thời gian theo dõi trung vị là 16 tháng, 4 trẻ còn lại không cải thiện về số lượng tiểu cầu trong 8-19 tháng theo dõi. Trong một nghiên cứu ở Hà Lan, Neefjes và cs (2007) đã đánh giá 47 trẻ có cITP, trong đó có 3 trường hợp nhiễm H. pylori và được điều trị liệu pháp ba thuốc nói trên trong 2 tuần. Qua 6 tháng theo dõi, cả ba đều có lui bệnh một phần hoặc hoàn toàn. Trong một nghiên cứu ở Iran, Hamidieh và cs (2008) đã đánh giá 31 trẻ có cITP, trong đó có 4 trường hợp nhiễm H. pylori và được điều trị liệu pháp ba thuốc trong 2 tuần. Không có trường hợp nào đạt được sự lui bệnh sau khi thanh toán H. pylori. Trong một nghiên cứu ở Nhật Bản, Hayashi và cs (2005) đã đánh giá 10 trẻ có cITP, trong đó có một trẻ nhiễm H. pylori và được điều trị với liệu pháp ba thuốc trong 1 tuần. Bệnh nhi này lui bệnh hoàn toàn qua hơn 1 năm theo dõi. Trong một nghiên cứu ở Ý, Bisogno và cs (2008) đã đánh giá 25 trẻ có cITP, trong đó có 9 em bị nhiễm H. pylori và được thanh toán H. pylori sau 1-2 liệu trình với liệu pháp ba thuốc dùng trong 2 tuần. Qua 6 tháng theo dõi, có 3/9 bệnh nhi tăng số lượng tiểu cầu, với 1 trường hợp lui bệnh hoàn toàn và 2 trường hợp lui bệnh tạm thời rồi tái phát vài tháng sau đó. Trên 6 trẻ còn lại, không thấy sự cải thiện có ý nghĩa của số lượng tiểu cầu. Cũng trong nghiên cứu ấy, các tác giả báo cáo sự đáp ứng tiểu cầu ở 16 bệnh nhi cIP nhưng không nhiễm H. pylori. Khi tái khám sau 6 tháng, 2 trên 16 bệnh nhi này đạt được sự lui bệnh một phần mà không cần điều trị đặc hiệu. Đồng thời, có 4 bệnh nhi cITP không nhiễm H. pylori có sự lui bệnh tự nhiên 1 năm sau chẩn đoán loại trừ nhiễm H. pylori. Trong lần tái khám sau cùng, 10 trẻ có H. pylori âm tính còn lại có số lượng tiểu cầu > 50 × 109/L mà không cần điều trị gì. Trong một nghiên cứu khác ở Ý, Loffredo và cs (2007) đã đánh giá 39 trẻ có cITP, trong đó có 8 trường hợp nhiễm H. pylori và được điều trị bằng liệu pháp ba thuốc từ 1-3 đợt, mỗi đợt 2 tuần. Qua 1 năm theo dõi, không có trường hợp nào lui bệnh, dù là lui bệnh một phần.

Gần đây, Treepongkaruna và cs (2009) đã báo cáo một nghiên cứu ngẫu nhiên đối chứng đa trung tâm về thanh toán H. pylori ở 55 trẻ có cITP. Trong số 16 trẻ (29,1%) có cITP và nhiễm H. pylori, 7 em được điều trị ngẫu nhiên với liệu pháp ba thuốc, trong khi 9 trẻ kia không được điều trị đặc hiệu. Mặc dù H. pylori được thanh toán thành công ở tất cả các bệnh nhi ở nhóm điều trị, nhưng tỉ lệ phục hồi tiểu cầu không khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm điều trị H. pylori và nhóm chứng trong 6 tháng theo dõi.

Từ những điều đã trình bày, vấn đề có nên xem xét dùng liệu pháp kháng sinh cho nhiễm H. pylori ở trẻ có cITP hay không vẫn chưa có giải đáp. Để kết luận, dựa trên chứng cứ được công bố về trẻ em có cITP và lợi ích thất thường của việc thanh toán H. pylori trên đáp ứng tiểu cầu, mối quan hệ giữa H. pylori và cITP ở trẻ em cần được nghiên cứu thêm với những thử nghiệm ngẫu nhiên qui mô lớn, có đủ độ mạnh và được thực hiện với cỡ mẫu thỏa đáng trên nhiều nhóm dân số khác nhau.

Hen và các rối loạn dị ứng

Ở các nước công nghiệp, tỉ lệ bệnh hen, đặc biệt là hen trẻ em, đã tăng lên trong những năm gần đây (Eder W và cs, 2006); trái lại, tỉ lệ nhiễm H. pylori đã giảm rõ rệt ở các nước phát triển (Suerbaum S & Michetti P, 2002; Atherton JC, 2006). Sự không phơi nhiễm sớm với H. pylori được cho là một yếu tố quan trọng đối với nguy cơ hen ở trẻ em (Cover TL & Blaser MJ, 2009). Trong một nghiên cứu hồi cứu cắt ngang, sử dụng số liệu của 3327 đối tượng từ 3-19 tuổi, tỉ lệ huyết thanh dương tính với H. pylori được nhận thấy có kết hợp ngược với khởi phát bệnh hen trước 5 tuổi và bệnh hen hiện thời ở trẻ em từ 3-13 tuổi (Chen Y & Blaser MJ, 2008).

Các bệnh dị ứng và hen là do tăng đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào T trợ thủ-2 (Th2) ở những người dễ cảm nhiễm (Umetsu DT & DeKruyff RH, 2006). Một số nghiên cứu gần đây đã cho thấy các tế bào T điều hòa (Treg) giữ vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các đáp ứng Th2 như vây. Giảm hoạt động của các Treg tự nhiên và/hoặc thích ứng được cho là căn nguyên dẫn đến sự phát triển dị ứng và hen. Tăng số lượng Treg đã được tìm thấy trong niêm mạc dạ dày người bị nhiễm H. pylori (Lundgren A và cs, 2005; Robinson K và cs, 2008). Như vậy, việc không phơi nhiễm sớm với H. pylori có thể làm mất đi thành phần lymphoid có hoạt tính chuyển hóa trong dạ dày, trong đó có Treg, mà về sau có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các tế bào T hiện diện trong niêm mạc và mô da ở những nơi khác (Robinson K và cs, 2008). Mặc dù rõ ràng đây là một thuyết đáng quan tâm, nhưng cần có các nghiên cứu dọc tiền cứu để kiểm định độ mạnh của sự kết hợp giữa tình trạng nhiễm H. pylori và nguy cơ hen ở trẻ em.

Kết luận

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh nhiễm H. pylori không gây ra các triệu chứng đặc hiệu ở trẻ em. Do đó, không thể nhận diện những trẻ bị viêm dạ dày do H. pylori dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đơn thuần. Căn cứ vào những bằng chứng tốt nhất hiện có, nên xét nghiệm (và điều trị) nhiễm H. pylori ở trẻ em có bằng chứng nội soi của loét tà tràng. Bằng chứng từ các nghiên cứu trên người lớn ủng hộ khuyến nghị nên xét nghiệm H. pylori ở trẻ em bị loét dạ dày. Nôi soi và sinh thiết cũng được khuyến nghị đối với trẻ có triệu chứng dai dẳng.

Việc theo dõi H. pylori ở trẻ không có triệu chứng cần được chỉ định cho những bệnh nhi tăng nguy cơ ung thư dạ dày, ví dụ có thân nhân bậc một bị ung thư dạ dày, và cần được cá biệt hóa trên những quần thể bị tăng nguy cơ ung thư dạ dày, có xét đến các bệnh đồng hành. Nghiên cứu gợi ý rằng không thể đề phòng ung thư dạ dày trên người bị nhiễm H. pylori mà không có tổn thương tiền ung thư. Do đó, trẻ em là nhóm đối tượng đích tốt nhất để tập trung các nỗ lực đề phòng sự phát triển ung thư dạ dày trong tương lai.

Mặc dù chứng khó tiêu và nhiễm H. pylori khá phổ biến trong dân số chung, nhưng số liệu về mối quan hệ nhân-quả giữa viêm dạ dày do H. pylori và chứng khó tiêu vẫn còn mâu thuẫn. Không rõ liệu thanh toán nhiễm khuẩn có dẫn đến sự cải thiện triệu chứng hay không. Vì vậy, cần có những nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược, với phương pháp nghiên cứu chặt chẽ và số đo kết cục được chuẩn hóa và kiểm chứng đầy đủ.

Không có bằng chứng thuyết phục để ủng hộ việc xét nghiệm thường qui trên trẻ em có cITP, kém tăng trưởng, và có bệnh trào ngược dạ dày-thực quản. Trên trẻ em thiếu máu thiếu sắt kháng trị, khi đã loại trừ được những nguyên nhân khác, có thể xét đến việc xét nghiệm (vả điều trị) nhiễm H. pylori. Cần có các nghiên cứu dọc tiền cứu để kiểm định độ mạnh của sự kết hợp giữa tình trạng nhiễm H. pylori và nguy cơ hen ở trẻ em. Khi chưa có những nghiên cứu này, khó có thể bỏ qua không điều trị nhiễm H. pylori ở bệnh nhân hen và dị ứng. Thanh toán H. pylori có lẽ sẽ rất có lợi để chữa dứt điểm loét tiêu hóa và lymphoma dạ dày và để dự phòng ung thư dạ dày, và cần được thực hiện trên bệnh nhân nhiễm H. pylori dù họ có bị hen hay không.

BS Nguyễn Triển dịch theo Lucia Pacifico và cs, World J Gastroenterol 2010, 16(41): 5181-5194

Download pdf

Kết quả điều trị gãy kín mâm chày độ v, vi bằng khung cố định ngoài cải biên

Nguyễn Đình Phú* Phạm Đăng Ninh** Nguyễn Văn Nhân**
*Ths.Bs PGĐ ,Trưởng khoa CTCH BV 115,HCM
** PGS.TS , Phó chủnhiệm bộmôn CTCH Học viện Quân y
*** Giáo sư. Tiến Sĩ khoa học BV 108, Hà Nội, khoa Chấn thương Chỉnh hình BV Nhân Dân 115, TP.HCM

Tóm tắt
Gãy mâm chày độ V, VI theo phân loại của Schatzker là loại gãy cả hai mâm chày với tổn thương rất phức tạp, thường gặp ở người trẻ và do lực chấn thương mạnh. Mục tiêu điều trị là phục hồi lại về giải phẫu bề mặt khớp, cố định ổ gãy vững chắc để giúp cho BN tập vận động sớm. Điều trị gãy kín mâm chày độ V, VI bằng nắn chỉnh kín dưới C- arm và cố định ngoài là phương pháp điều trị can thiệp tối thiểu trên phần mềm, ít nguy cơ nhiễm khuẩn, hoại tử da và sau mổ bệnh nhân có thể tập vận động khớp gối rất sớm. Kế thừa các tác dụng tích cực của khung Ilizarov, khung Muller và khung Vũ Tam Tỉnh, chúng tôi đã tạo ra một mẫu khung cố định ngoài gần khớp và ứng dụng điều trị cho 49 bệnh nhân gãy mâm chày độ V và VI theo phân loại của Schatzker.
Kết quả điều trị 49 trường hợp gãy mâm chày theo phương pháp trên đạt tỉ lệ liền xương 100% với thời gian lành xương trung bình 14,9 tuần, > 90% số BN đạt kết quả phục hồi biên độ vận động khớp gối > 120°. Không có biến chứng nhiễm khuẩn và co rút cơ gây bàn chân thuổng.Summary
TREATMENT OF SCHATZKER V/VI TIBIAL PLATEAU FRACTURES WITH A MODIFIED EXTERNAL FIXATION APPROACH: A CASE SERIES REPORT
Bicondylar fractures of tibia representing Schatzker type V and VI fractures are often resulted from high-energy injuries in young individuals. The goals of treatment of these injuries are reduction of the articular surface and restoration of the metaphyseo-diaphyseal dissociation. Application of closed reduction method and external fixation for the tibial plateau fractures results in a decreased average time of bone union, a reduced rate of wound infection and an improved range of motion of the affected knee.
Over a two-year period, 49 patients with these fractures were treated at the Nhan Dan 115 Hospital (HCMC) using a modified external fixation procedure with favourable outcomes. All fractures united at an average of 14.9 weeks and more than 90% of cases achieved flexion of the knee joint about more than 120 degrees. Neither mal-union of fracture nor collapse of Achilles tendon was observed.

Đặt vấn đề
Gãy mâm chày độ V, VI theo phân loại của Schatzker là gãy cả hai mâm chày và có đường gãy tách rời giữa đầu xương và thân xương. Điều trị kết hợp xương bên trong bằng nẹp vít tuy chỉnh được trục chi về bình thường nhưng có nhiều nguy cơ biến chứng hoại tử da, nhiễm khuẩn. Nếu như không phải mở ổ gãy và cố định bằng khung cố định ngoài cải biên thì độ an toàn cao hơn rất nhiều.
Báo cáo này công bố kết quả 49 trường hợp gãy mâm chày độ V, VI theo phân loại của Schatzker, được điều trị tại khoa Chấn thương Chỉnh hình của Bệnh viện Nhân dân 115 với nắn chỉnh kín và cố định ngoài cải biên.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

1. Đối tượng nghiên cứu

49 bệnh nhân (BN) gãy kín mâm chày do chấn thương được điều trị tại BV Nhân Dân 115, TP.HCM.

2. Phương pháp nghiên cứu

Tiến hành thăm khám BN. Chụp X-quang khớp gối và cẳng chân trên hai bình diện thẳng và nghiêng.
Chẩn đoán xác định dựa trên phim X-quang, đánh giá hình thái đường gãy, các biến dạng của mâm chầy về độ rộng và mức độ lún của mâm chày.
Lựa chọn phương pháp điều trị cố định ngoài bằng khung tự tạo và các đinh Kirschner đường kính 1,8 – 2,0 mm xuyên qua đầu trên xương chày + các đinh Schanz đường kính 4,5 mm bắt dọc thân xương chày.
Kỹ thuật:Sau khi gây tê tủy sống bằng Marcain 0,5%, đặt nằm ngửa trên bàn chỉnh hình. Xác định khe khớp gối bằng hai đinh Kirschner nhỏ. Dùng kìm lớn AO để ép hai mâm chày và dùng đinh Steinman để nâng mâm chày lún. Kiểm tra dưới màn X-quang tăng sáng. Có thể kết xương bằng vít xốp đối với các mảnh vỡ lớn bằng cách bắt vít qua da, sau đó đặt khung cố định ngoài. Trường hợp cần ép các mảnh gãy mâm chày lại thì dùng hai đinh Kirschner có núm xuyên từ trong ra và ngoài vào để kéo ép cho 2 mảnh gãy áp khít lại. Phía thân xương chày, xuyên các đinh Schanz theo trục dọc của xương.


Hình1: Khung cố định ngoài cải biên

Quấn gạc vô trùng tẩm cồn 70° các chân đinh.
Cho BN nằm bất động, kê cao chi trong vài ba ngày đầu. Sau đó cho đứng dậy tập đi chống hai nạng không tì lên chân gãy và tập gấp duỗi gối chủ động không tải, tăng dần. Tì đè chủ động chân đau sau 8 tuần.

Kết quả
– 49 BN tuổi từ 22 đến 65 (trung bình: 39,18 tuổi) gồm 31 nam và 18 nữ bị gãy kín mâm chày do chấn thương.
– Có 21 BN gãy độ V và 28 BN độ VI theo phân loại của Schatzker.
– Kết quả nắn chỉnh mặt khớp mâm chày: Bảng 1
Bảng 1: Kết quả nắn chỉnh mặt khớp mâm chầy:

độ V độ VI
trước mổ sau mổ trước mổ sau mổ
Độ lún mặt khớp mâm chày trong
– Không lún: 20 20 21 25
– 1-3mm: 1 1 7 3
Độ lún mặt khớp mâm chày ngoài
Không lún: 12 14 18 18
– 1-3mm: 1 7 7 18
– 4-6mm 6 0 5 0
Độ tăng bề rộng mâm chày
– Không tăng 0 10 0 10
– 1-5mm: 6 11 11 18
– 4-6mm 12 0 15 0
>10mm 3 0 2 0

– Phương pháp nắn chỉnh:
23 BN nắn kín + cố định ngoài (CĐN).
26 BN nắn kín + kết xương tối thiểu + cố định ngoài:
– 15 BN nắn kín hoàn toàn
– 11 BN nắn kín có mở tối thiểu.

Kết quả gần

Diễn biến tại chỗ:

11/49 BN có mổ nhỏ 3 – 4cm: liền vết mổ kỳ đầu. Không có nhiễm khuẩn nông hoặc sâu. Nhiễm khuẩn chân đinh: 11 BN.

Kết quả tại thời điểm tháo CĐN

– Kết quả liền xương 100%.
– Không có sự thay đổi về độ di lệch ở mâm chày giữa kết quả gần và kết quả kiểm tra ở thời điểm tháo CĐN.
– Biên độ vận động khớp gối (n = 49)
× 90o – 119o: 17 BN (7 độ V, 10 độ VI)
× 120o – 139o: 30 BN (13 độ V, 17 độ VI)
× >140o: 2 BN (1 độ V, 1 độ VI)
– Biên độ gấp gối trung bình: 115,7o
– Độ vững khớp gối (n = 49)
Có 5/49 BN (10,20%) có test ngăn kéo ra trước dương tính ở thời điểm tháo CĐN, trong đó gãy loại V có 2 BN (4,08%), loại VI có 3 BN (6,12%).
– Biến chứng (n = 49 )
× 11 BN nhiễm khuẩn chân đinh, chăm sóc và liền vết thương.
× Lệch trục chi: 2 BN do nắn xương không tốt (cẳng chân vẹo ngoài 6o và BN kia là 7o )
× Không ghi nhận BN nào bị co rút gân gót.

Kết quả xa (n=43)

Đánh giá kết quả điều trị theo tiêu chuẩn của Larson–Bostman, kết quả X-quang theo Honkonen– Jarvinen và đánh giá chức năng theo thang điểm của Hội Khớp Hoa Kỳ. Có 43/49 BN được kiểm tra kết quả với thời gian theo dõi từ 12 đến 48 tháng, trung bình là 21,53 tháng. Kết quả như sau:
– Sẹo mổ mềm mại, không dính xương: 100%.
– Cả 43 BN đều liền xương, không có khớp giả hoặc can xấu.
– Độ lún mặt khớp mâm chày trong
× Không lún: 39 BN (18 độ V, 21 độ VI)
× Lún từ 1-3mm: 4 BN (1 độ V, 3 độ VI)
– Độ lún mặt khớp mâm chày ngoài .
× Không lún: 28 BN (13 độ V, 15 độ VI)
× Lún từ 1-3mm: 15 BN (6 độ V, 9 độ VI)
– Vận động khớp gối.
× Từ 90o – 119o: 7BN (3 độ V, 4 độ VI)
× Từ 120o trở lên: 36 BN (16 độ V, 20 độ VI).
– Biên độ gấp gối trung bình đạt: 123,46o
– Độ vững khớp gối: có 5 BN có test ngăn kéo ra trước dương tính ở thời điểm tháo khung CĐN đến khi kiểm tra kết quả xa vẫn như vậy. Các BN được giải thích đi chụp MRI để đánh giá tình trạng tổn thương dây chằng chéo và xử trí tiếp nhưng cả 5 BN đều chấp nhận kết quả hiện tại.
– Điểm chức năng khớp gối (n=43).
× 60-69 điểm: 2 BN độ VI
× 70-79 điểm: 14 BN (6 độ V, 8 độ VI)
× 80-100 điểm: 27 BN (13 độ V, 14 độ VI)
– Điểm khớp gối trung bình: 87,16 điểm.
– Điểm chức năng (n=43).
× 60-69 điểm: 2 BN độ VI
× 70-79 điểm: 13 BN (5 độ V, 8 độ VI)
× 80-100 điểm: 28 BN (14 độ V, 14 độ VI)
– Điểm chức năng trung bình: 83,19 điểm.
– Kết quả điều trị chung (n=43).
× Rất tốt: 7 BN (6 độ V, 1 độ VI)
× Tốt: 34 BN (13 độ V, 21 độ VI)
× Trung bình: 2 BN độ VI
– Kết quả tốt và rất tốt đạt 95,35%
– Biến chứng liền xương lệch trục chi: 2 BN (1 BN cẳng chân vẹo ngoài 6o và BN kia là 7o). Nguyên nhân là do khi nắn chỉnh chỉ quan tâm đến phục hồi mặt khớp mâm chày mà không chú ý nhiều đến chỉnh trục xương.

Bàn luận
Gãy kín mâm chày độ V, VI theo phân loại của Schatzker là loại gãy phức tạp cả hai mâm chày.(2,4,5) Với những trường hợp gãy mâm chày phức tạp, việc chỉ định điều trị bảo tồn bằng kéo liên tục kết hợp với bột hay phẫu thuật để kết hợp xương còn nhiều vấn đề cần tranh luận. Phương pháp điều trị bảo tồn có tỉ lệ biến chứng can xấu và cứng khớp gối khá cao. Kết xương nẹp vít với hai đường mổ bên trong và bên ngoài và hai bộ nẹp vít là phương pháp đã được nhiều tác giả áp dụng nhưng nguy cơ nhiễm khuẩn, hoại tử da, toác vết mổ lộ nẹp lộ xương cao. Ngoài ra nếu sau phẫu thuật còn di lệch trục giữa mâm chày và thân xương nhiều thì không thể chỉnh được. Việc chỉnh lại ổ gãy cũng hết sức khó khăn vì cả hai mâm chày đều gãy, có nhiều mảnh rời và đường gãy dài xuống tận thân xương chày gây ra mất liên tục giữa đầu xương và thân xương. Với khung cố định ngoài, ổ gãy được cố định vững chắc, ít chấn thương phẫu thuật, nhất là nắn chỉnh kín, sau mổ có thể tập vận động sớm nên có nhiều thuận lợi cho liền xương và phục hồi chức năng.
Nghiên cứu này áp dụng điều trị gãy Schatzker V, VI bằng khung cố định ngoài cải biên với những kết quả khả quan thu được ở 49 bệnh nhân.
Đây là phương pháp có kỹ thuật đơn giản, khung cố định cải biên này sản xuất trong nước, thời gian nằm viện ngắn, chi phí điều trị thấp.
Kiểm tra kết quả cả 49 trường hợp với thời gian lành xương trung bình là 14,9 tuần, nhanh nhất là 11 tuần, chậm nhất là 24 tuần với kết quả nắn chỉnh giải phẫu khá tốt. Không gặp BN nào có di lệch thứ phát, lún mâm chày, tăng bề rộng mâm chày khi đánh giá kết quả xa. Có 2/43 BN liền xương còn di lệch tại ổ gãy ở tư thế mở góc ra ngoài < 10o.
Chưa gặp BN nào bị teo cơ, thoái hóa khớp gối và co rút gân gót tại thời điểm đánh giá kết quả xa.
Có 11/49 BN có nhiễm khuẩn chân đinh ở mức dịch chân đinh, nhưng tất cả đều được điều trị ổn định bằng kháng sinh và tự thay băng chăm sóc các chân đinh. Không có trường hợp nào bị nhiễm khuẩn nặng ở chân đinh phải thay đổi đinh hoặc hình thức cố định. Ngoài ra do không có sẹo mổ hoặc sẹo mổ nhỏ nên tính thẩm mỹ cao và sau này không phải mổ lấy nẹp vít hay mổ kết hợp xương bên trong.

Kết luận
Nghiên cứu điều trị 49 BN gãy kín mâm chày độ V, VI theo phân độ của Schatzker bằng phương pháp nắn chỉnh kín + kết xương bằng khung cố định ngoài cải biên của chúng tôi đạt kết quả khả quan: có 7 BN đạt mức rất tốt, 34 BN đạt mức tốt, 2 BN đạt mức trung bình. Không có BN đạt kết quả kém.
Ở thời điểm kiểm tra kết quả sau trung bình 21 tháng, không thấy các biến chứng viêm rò tại vết mổ, khớp giả, gãy lại ổ can xương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Huỳnh Bá Lĩnh. Điều trị gãy mâm chày Schatzker V,VI bằng khung cố định ngoài dạng vòng. Chuyên đề y học CTCH TpHCM, Số 2 /2005
2.Nguyễn Văn Nhân. Bộdụng cụkết hợp xương nén ép và căng dãn. Viện quân Y 108, Tr 2 – 25.
3.Bohler L. Gãy mâm chày. Kỹ thuật điều trị gãy xương (Nguyễn Quang Long dịch ) tập 3, trang 142-161
4.Hoàng Đức Thái (2004). Điều trị gãy mâm chày bằng kết hợp xương tối thiểu với cố định ngoài Ilizarov. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú các bệnh viện. Đại học Y- Dược TP Hồ Chí Minh, trang 16-27.
5.Dendrios G.K., Kontos S., Katsenis D., Dalas A (1996). Treatment of energy tibial plateau fractures by the Ilizarov circular fixator. J. Bone and Joint Surg.Br.,78.pp.1305-1312.
6.White A.P (1998). Tibial Plateau Fractures. Campbell’s Operrative Orthopaedics. Vol.3.pp.547-562.
7.White A.P, Kummar A (2000). Treatment of complex (Schatzker type VI) fractures of tibial plateau with circular wire external fixation: retrospective case review. J. Orthop. Trauma, 2000 Jun – Jul 14 (339 – 445)

Download pdf

Nôn ói ở người lớn: tiếp cận chẩn đoán

Chỉ khoảng một phần tư số người bị nôn ói cấp tính đi khám bệnh. Trong số này, hai phần ba đến khám vì độ nặng của triệu chứng, số còn lại sợ có bệnh trầm trọng và muốn tìm sự trấn an của bác sĩ (Quigley EM và cs, 2001). Gánh nặng kinh tế đối với cộng đồng cũng có ý nghĩa, ví dụ như một nghiên cứu ở Anh đã cho thấy mỗi năm nôn ói gây mất 8,5 triệu ngày công lao động (Hasler WL & Chey WD, 2003).
Thân não là nơi kiểm soát ói mửa, nó điều phối một loạt tác động liên quan đến cơ trơn đường ruột và cơ vân để tống mạnh chất chứa trong dạ dày ra ngoài. Về cơ bản, ói mửa là một phản xạ để loại bỏ những chất có tiềm năng có hại ra khỏi cơ thể.
Cần phân biệt những triệu chứng khác nhau có thể được mô tả bằng từ ‘nôn ói’. Buồn nôn là cảm giác khó chịu muốn ói và thường đi kèm với tăng tiết nước dải trong miệng. Ói mửa là sự tống tháo thức ăn trong dạ dày qua đường miệng. Ợ là co thắt cơ bụng nhưng không tống tháo thức ăn khỏi dạ dày. Trái lại, trớ là sự trào ngược thức ăn trong dạ dày lên miệng mà không có sự gắng sức nào, thường không có cảm giác buồn nôn, và có thể là một triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày-thực quản hoặc hội chứng nhai lại.
Tùy theo triệu chứng là cấp hay mạn tính mà xác định nguyên nhân buồn nôn/ói mửa và đề ra kề hoạch thăm khám thích hợp. Các triệu chứng mạn tính được định nghĩa là triệu chứng kéo dài từ một tháng trở lên.Bảng 1. Nguyên nhân buồn nôn và ói mửa cấp tính

Thường gặp

• Viêm dạ dày-ruột
• Nhiễm khuẩn ngoài tiêu hóa (ví dụ nhiễm khuẩn niệu trên người già)
• Dùng thuốc

Không được bỏ sót

• Các nguyên nhân ngoại khoa
– viêm tụy
– viêm túi mật
– viêm ruột thừa
– tắc ruột non
• Nhiễm toan-keton tiểu đường
• Bệnh Addison
• Tăng áp lực trong sọ (thường có các triệu chứng thần kinh khác)
• Viêm gan
• Ăn những thức ăn gây kích ứng/dị nguyên

Nôn ói cấp tính

Nguyên nhân

Nguyên nhân thường gặp nhất của nôn/ói cấp tính (Bảng 1) là viêm dạ dày-ruột do virus hoặc ngộ độc thức ăn nhiễm khuẩn. Viêm nhiễm dạ dày-ruột thường hay gặp ở trẻ em và người lớn còn trẻ. Các virus gây viêm dạ dày-ruột cấp gồm có rotavirus, adenovirus và norovirus (đặc biệt là trong các vụ dịch). Độc tố vi khuẩn vấy nhiễm trong thức ăn có thể gây ói mửa đơn thuần, và thường do ăn những thức ăn chưa được nấu chín, bảo quản không đúng cách và bị nhiễm Staphylococcus aureus hoặc Bacillus cereus.
Nguyên nhân nhiễm khuẩn được nghĩ đến khi có triệu chứng tiêu chảy, đau bụng nhẹ, sốt, khó ở, một nguyên nhân/tiếp xúc tiềm năng (ví dụ đi xa, nhà có người bệnh, ăn những thực phẩm ‘đáng ngờ’) và không có dấu hiệu bụng nhạy đau khi khám. Ói mửa do độc tố thường xảy ra 1–6 giờ sau khi ăn thức ăn bị vấy nhiễm. Các nhiễm khuẩn khác như viêm tai giữa, nhiễm khuẩn niệu, viêm màng não và viêm gan cũng có thể gây ói mửa như là một triệu chứng trong bệnh cảnh chung, nhưng hiếm khi xảy ra đơn độc trừ trường hợp bệnh nhân cao tuổi.
Tác dụng phụ của thuốc thường có tính chất cấp tính, xảy ra sớm sau khi bắt đầu dùng thuốc, nhưng cũng có thể xuất hiện muộn hoặc không được nhận biết và có tính chất bán cấp. Nên hỏi kỹ bệnh nhân về việc dùng thuốc, kể các các vitamin, dược thảo, và thuốc mua không cần toa bác sĩ, cũng như bệnh sử uống rượu và dùng chất gây nghiện. Những thay đổi gần đây trong việc dùng thuốc đặc biệt có ý nghĩa. Mọi thuốc mới bắt đầu dùng gân đây phải được xem như một nguyên nhân tiềm năng của nôn/ói, tuy rằng chỉ có một số thuốc là hay gây tác dụng phụ này (Bảng 2).
Trong tắc nghẽn cơ học ở đường ruột, ói mửa thường là triệu chứng nổi bật, mà không kẻm cảm giác buồn nôn, ít ra là trong giai đoạn dầu. Chất ói ra có thể là một manh mối về nơi tắc nghẽn: thức ăn chưa tiêu hóa và nước bọt trong tắc nghẽn thực quản, thức ăn đã tiêu hóa một phần trong tắc nghẽn dạ dày (hẹp môn vị), và thức ăn lẫn mật hoặc hôi thối khi tắc nghẽn ở những vị trí thấp hơn. Tắc ruột non thường có ói mửa cấp tính, dai dẳng và đi kèm với các cơn đau quặn bụng; nhưng đôi khi có thể xảy ra cách hồi hoặc bán cấp.
Chóng mặt, các triệu chứng thần kinh, cứng cổ hoặc nhức đầu gợi ý một nguyên nhân thần kinh và cần được khẩn trương thăm khám thích hợp. Trên phụ nữ tuổi sinh đẻ, đừng quên chẩn đoán thai, nhất là phụ nữ có triệu chứng buồn nôn vào sáng sớm.

Bảng 2. Thuốc thường gây nôn ói

• Hóa trị ung thư
• Thuốc kháng viêm không-steroid
• Digoxin (buồn nôn có thể xảy ra ở liều điều trị)
• Thuốc chống loạn nhịp
• Thuốc chữa tiểu đường dạng uống (đặc biệt là metformin)
• Kháng sinh (erythromycin, co-trimoxazole)
• Sulfasalazin
• Miêng dán nicotin
• Thuốc ngủ
• Thuốc chữa bệnh Parkinson
• Thuốc chống động kinh (kể cả ở liều điều trị)
• Vitamin liều cao

Đánh giá ban đầu

Trong bệnh cảnh cấp tính, việc hỏi bệnh, khám thực thể và những xét nghiệm đơn giản thường có thể giúp chẩn đoán. Triệu chứng ói mửa thường tự hạn chế. Tiếp cận chẩn đoán tập trung vào việc nhận diện nguyên nhân (hoặc ít ra là loại trừ những bệnh tiềm ẩn quan trọng) nhằm xử trí theo dõi hoặc điều trị đặc hiệu.
Nên tìm cách phát hiện những biến chứng của nôn/ói và loại trừ những trường hợp cấp cứu. Phần lớn các trường hợp không nặng đến độ phải nhập viện, nhưng điều trị đường tĩnh mạch có thể cần thiết đối với:
• mất nước nặng (mà không thể bù nước bằng đường uống)
• có bất thường chuyển hóa quan trọng liên quan với ói mửa (bao gồm hạ kali-máu, nhiễm kiềm chuyển hóa hoặc tăng urê-máu)
• các cấp cứu ngoại khoa (ví dụ tắc cơ học, thủng tạng hoặc viêm phúc mạc)
• các yếu tố y khoa và xã hội khác làm tăng khả năng biến chứng (ví dụ suy thận, suy tim hoặc suy gan).

Thăm khám

Đánh giá mất nước lâm sàng qua các dấu hiệu khô niêm mạc, giảm độ đàn hôi da, nhịp tim nhanh và hạ huyết áp tư thế.
Cần khám bụng để tìm dấu hiệu nhạy đau (đặc biệt là nhạy đau khu trú), trướng bụng hoặc tiếng óc ách (dùng ống nghe đặt trên thành bụng để nghe tiếng óc ách khi lắc bụng) trong trường hợp tắc ruột hoặc tắc môn vị.
Nên đặc biệt chú ý những vùng thường có thoát vị. Âm ruột có thể nghe vang trong tắc ruột cơ học hoặc không nghe được trong liệt ruột. Nếu có các dấu hiệu khi khám bụng, nên hội chẩn ngoại khoa ngay.

Xét nghiệm thăm dò

Nhiều trường hợp cần làm xét nghiệm thăm dò. Các xét nghiệm sinh hóa cơ bản gồm có (tùy trường hợp):
• điện giải đồ và chức năng thận
• công thức máu đầy đủ
• men tụy và men gan
• glucose.
Nếu nghi tắc ruột non, cần xem xét chụp X-quang ở tư thế đứng và nằm ngửa. Tuy vậy, cần nhớ rằng X-quang thiếu độ đặc hiệu và độ nhạy (Hasler WL, Chey WD, 2003). Hình ảnh của chúng có thể bình thường trên bệnh nhân bị tắc ruột không hoàn toàn/bán cấp và viêm dạ dày-ruột cấp có thể gây dãn nở ruột non và có mức mước-hơi.

Xử trí

Khi đã loại trừ được nguyên nhân ngoại khoa và bệnh lý quan trọng, cần bù dịch tốt nhất là bằng đường uống và dùng thuốc chống nôn ói dạng uống hoặc tiêm bắp. Có thể cho bệnh nhân về nhà kèm lợi dặn quay lại bệnh viện nếu triệu chứng xấu đi hoặc không cải thiện. Nếu không thể điều trị ngoại trú, cần truyền dịch tĩnh mạch và dùng thuốc tiêm chống nôn. Các thuốc chống nôn được chọn bao gồm: metaclopramide (uống hoặc tiêm [nên thận trọng khi dùng ở phụ nữ trẻ vì nguy cơ có cơn trợn mắt]); prochlorrperazine (uống, tọa dược, hoặc tiêm); hay ondansetron (uống hoặc tiêm). Thường không cần theo dõi đối với một đợt nôn/ói tự hạn chế.

Nôn ói mạn tính

Nguyên nhân

Bảng 3 trình bày những nguyên nhân chính của buồn nôn và ói mửa mạn tính. Nhiều bệnh đường tiêu hóa có triệu chứng buồn nôn kèm theo những triệu chứng khác. Nôn/ói sau bữa ăn gợi ý nguyên nhân ở đường tiêu hóa trên, bao gồm trào ngược dạ dày-thực quản, khó tiêu cơ năng, liệt dạ dày hoặc tắc dạ dày-ruột. Ói mửa trong tắc nghẽn lối ra ở dạ dày thường xảy ra khoảng một giờ sau khi ăn (mặc dù giờ giấc có thể thay đổi khác nhau). Bệnh sprue, loét dạ dày-tá tràng, bệnh ác tính đường tiêu hóa trên, viêm gan hoặc cung thư tụy có thể có triệu chứng buồn nôn và ói mửa trong bệnh cảnh chung, nhưng đôi khi có thể là triệu chứng chính. Nhiễm Helicobacter pylori không biến chứng không phải là nguyên nhân của ói mửa mạn tính (Saad RJ 2006).
Bảng 3. Nguyên nhân buồn nôn và ói mửa mạn tính

Do thuốc gây ra
• Thuốc được kê toa
• Rượu
• Chất gây nghiện
– cần sa
– á phiện
Bệnh đường tiêu hóa
• Bệnh trào ngược dạ dày-thực quản
• Khó tiêu cơ năng
• Liệt dạ dày
• Loét dạ dày-tá tràng
• Bệnh Crohn
• Thoát vị ruột cách hồi
Bệnh lý nội khoa toàn thân
• Tăng urê-máu
• Cường giáp/nhược giáp
• Tăng calci-máu
• Bệnh Addison
• Suy tim
Bệnh ác tính ẩn ở
• Tụy
• Phổi
• Hệ nội tiết
• Dạ dày-ruột
Bệnh lý thần kinh
• Tăng áp lực trong sọ
• Đau đầu migrain
• Rối loạn mê đạo
Nguyên nhân tâm thần/cơ năng/vô căn
• Trầm cảm/loạn thần
• Lo âu
• Buồn nôn cơ năng
• Hội chứng ói mửa theo chu kỳ

Liệt dạ dày

Liệt dạ dày là một bệnh trạng chưa được hiểu rõ, trong đó dạ dày tháo rỗng chậm, được giả định là do rối loạn vận động dạ dày hoặc tá tràng. Dạ dày không thể tống xuất hết thức ăn và chất tiết dẫn đến căng trướng, tức bụng, buồn nôn và ói mửa. Mối quan hệ giữa độ nặng của liệt dạ dày và các triệu chứng tương đối kém rõ ràng vì những lý do chưa được biết rõ, và cần nhớ rằng bản thân buồn nôn cũng có thể làm chậm tháo rỗng dạ dày. Liệt dạ dày có thể xảy ra sau mổ dạ dày (một nguyên nhân ngày càng hiếm thấy) hoặc do những bệnh như tiểu đường lâu ngày hoặc xơ cứng bì. Trên bệnh nhân còn trẻ, liệt dạ dày thường là vô căn, đôi khi được cho là do ‘virus’ vì xảy ra sau một đợt nhiễm virus.

Bệnh nội khoa tiềm ẩn

Các bệnh lý thần kinh bao gồm tăng áp lực trong sọ, đau đầu migrain, động kinh co giật và rối loạn mê đạo. Chóng mặt, các triệu chứng thần kinh, cứng cổ hoặc nhức đầu gợi ý một nguyên nhân thần kinh. Các nguyên nhân nội tiết bao gồm tăng calci-máu, nhược giáp và bệnh Addison. Suy tim nặng có thể gây buồn nôn do sung huyết gan và ruột. Sốt, đổ mồ hôi đêm và sút cân có thể xảy ra trong bệnh ác tính.

Nôn ói cơ năng

Buồn nôn và ói mửa không rõ nguyên nhân có thể là nôn ói cơ năng.

Đánh giá và chẩn đoán

Bệnh nhân cần được hỏi bệnh sử và thăm khám toàn diện.

Bệnh sử

Bệnh sử có thể gợi ý nguyên nhân nôn ói, nhưng cần lưu ý rằng triệu chứng có thể là những dấu hiệu dự báo kém cho bệnh lý thực thể so với rối loạn cơ năng, vì ngay cả sút cân nhiều cũng có thể xảy ra trong một bệnh cơ năng (Spiller RC, 2003), Về mặt dịch tễ, những yếu tố tiên đoán tốt nhất cho bệnh thực thể là giới nam và lớn tuổi (Spiller RC, 2003). Tình trạng kiệt sức, số lần đi khám bệnh, thời gian nghỉ việc, các triệu chứng ‘cơ năng’ đi kèm như đau đầu và đau mạn tính, dùng thuốc hướng thần, và xét nghiệm H. pylori âm tính đều là những yếu tố tiên đoán cho rối loạn cơ năng.
Nên tìm sự liên quan với sự thay đổi trong việc dùng thuốc, với bất kỳ thuốc nào được xem là nguyên nhân tiềm năng, kể cả thuốc mua không cần toa, ‘thuốc tự nhiên’, vitamin hoặc dược thảo, cũng như các loại thuốc bổ và thực phẩm chức năng. Những thuốc thường gây nôn ói gồm có thuốc họ á phiện, thuốc kháng viêm không-steroid, thuốc dopaminergic (ví dụ levodopa), digoxin, thuốc kháng sinh (ví dụ doxycyclin và sulphonamid), thuốc hạ đường huyết dạng uống và thuốc đường tiêu hóa (ví dụ sulfasalazin). Cần chú ý hỏi kỹ tình trạng nghiện rượu nặng. Buồn nôn do dùng cần sa lâu ngày có đặc điểm là được cải thiện khi tắm nước nóng (Wallace D và cs, 2007).
Ói mửa buổi sáng thường kết hợp với thai nghén, tăng urê-máu, uống rượu và tăng áp lực trong sọ. Ói mửa do nguyên nhân thần kinh thường ói thành vòi và phụ thuộc tư thế, trong khi các rối loạn cơ năng thường gây ra các triệu chứng liên tục.

Thăm khám

Việc thăm khám nên tập trung chú ý đến các bệnh nội khoa toàn thân và các bệnh tiêu hóa được nêu trong Bảng 3, cùng với việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thần kinh. Trên người lớn, hiếm khi bệnh trong sọ chỉ có triệu chứng ói mửa đơn thuần (Quigley EM và cs, 2001). Nếu không có các triệu chứng khác, chỉ xét đến nguyên nhân thần kinh khi ói mửa kéo dài và nặng mà không có lý do giải thích được.

Xét nghiệm thăm dò

Sau khi đánh giá lâm sàng đầy đủ và thăm dò bước đầu, có thể tìm ra hoặc nghi ngờ một nguyên nhân nào đó gây ra các triệu chứng của bệnh nhân, và có thể bắt đầu điều trị. Nếu nghi thuốc chống trầm cảm/lo âu gây ra triệu chứng nôn ói thì nên sớm loại bỏ hoặc thay thế thuốc này, và nếu triệu chứng được cải thiện thì không cần xét nghiệm thăm dò thêm. Nếu không tìm ra nguyên nhân khi đánh giá ban đầu, cần quyết định xem nên xét nghiệm thăm dò thế nào cho thích hợp và việc này cần phải dựa vào hoàn cảnh lâm sàng. Trong khi chờ đợi, có thể thử điều trị với một thuốc chống nôn nếu không có các triệu chứng báo động, tuy rằng hiệu quả kinh tế của việc điều trị thử này chưa được đánh giá. Thay đổi chế độ ăn cũng có thể có ích, với việc chia nhỏ thành nhiều bữa ăn, giảm lượng mỡ và thức ăn nhiều gia vị hoặc tránh dùng các thức ăn được để ý là gây nôn.
Việc xét nghiệm thăm dò cần điều chỉnh phù hợp với tình huống lâm sàng, tập trung vào những nguyên nhân tiềm năng và các hậu quả chuyển hóa/dinh dưỡng, và có thể bao gồm những xét nghiệm thăm dò được liệt kê trong Bảng 4.
Nội soi tiêu hóa trên là test chẩn đoán nhạy và đặc hiệu nhất đối với các tổn thương niêm mạc và nên làm sinh thiết tá tràng để đánh giá bệnh sprue, nhiễm khuẩn hoặc viêm ruột bạch cầu ái toan. Có thể nghi liệt dạ dày khi nội soi thấy còn thức ăn trong dạ dày. Các xét nghiệm thăm dò thêm bằng chụp cắt lớp điện toán (CT) bụng để tìm tắc nghẽn, u bướu, bệnh gan-mật hoặc tuyến tụy. Chụp X-quang ruột non hàng loạt hiếm khi hữu ích, nhưng có thể có giá trị nếu được thực hiện khi có các triệu chứng cấp tính để chẩn đoán thoát vị kín (CT có cản quang có lẽ sẽ tốt hơn trong trường hợp này) ).
Có thể phải cần gửi xét nghiệm chuyên khoa tiêu hóa hoặc thần kinh, bao gồm khảo sát sự tháo rỗng dạ dày (để chính thức đánh giá liệt dạ dày – nếu bệnh nhân là người tiểu đường cần đánh giá khi đường huyết bình thường, vì nồng độ glucose cao trong máu có thể làm chậm tháo rỗng dạ dày) và chụp cộng hưởng từ (MRI) não nếu nghi có bệnh lý trong sọ.
Đánh giá tâm lý hoặc tâm thần có thể có ích nếu vẫn không tìm được nguyên nhân gây ra triệu chứng, nhưng việc này cần được giải thích cặn kẽ và bàn bạc với bệnh nhân. Một số bệnh nhân bị nôn ói mạn tính đã từng đi khám nhiều nơi và rất nhạy cảm với việc triệu chứng của họ được bác sĩ cho là tầm thường hoặc do ‘bệnh tưởng’ mà ra.
Khi nghi ngờ một nguyên nhân tâm thần hoặc cơ năng, nên giải thích cho bệnh nhân biết là ruột có một hệ thần kinh hoàn chỉnh và được kết nối rộng rãi với bộ não. Khi ấy, sẽ dễ dàng để giới thiệu khái niệm rằng những sự kết nối ấy ‘có vấn đề’ và đó có thể là nguyên nhân gây ra triệu chứng. Ngôn ngữ thường ngày có rất nhiều cách diễn đạt cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa não và ruột trong tình huống xúc động hoặc stress: ‘ruột gan rối bời’, ‘lòng như lửa đốt’, ‘thấy muốn ói’, ‘tức cành hông’, ‘rầu thối ruột’,… Có thể dùng những ví dụ ấy để chứng minh cho bệnh nhân thấy cảm xúc và stress có thể kết hợp với cảm giác ở đường tiêu hóa.

Xử trí

Trên bệnh nhân bị buồn nôn và ói mửa mạn tính mà không tìm ra được nguyên nhân cụ thể thì điều trị thuốc chống nôn là một việc làm đầy thách thức, đặc biệt khi có triệu chứng nặng. Dùng cốm ondansetron cách hồi (để được hấp thu nhanh không phụ thuộc vào sự tháo rỗng dạ dày), tuy đắt tiền nhưng có thể dùng như một điều trị giải nguy khi triệu chứng xảy ra từng đợt. Maxalon, Stemetil, hoặc domperidone cũng có thể hữu ích. Những thuốc này có thể dùng kéo dài nhưng làm tăng nguy cơ tác dụng phụ ngoài tháp. Nôn ói mạn tính có thể đáp ứng với một liều thấp thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ amitrytalin 30 mg ban đêm, bắt đầu với liều 10 mg rồi từ từ tăng dần).
Tóm tắt các điểm quan trọng
• Phần lớn các trường hợp nôn ói cấp tính đều tự hạn chế và mục đích của việc đánh giá là giảm biến chứng và tầm soát các nguyên nhân quan trọng có thể điều trị được (đặc biệt là nguyên nhân ngoại khoa). Trong nhiều trường hợp, có thể chẩn đoán sau khi hỏi bệnh, đầy đủ, thăm khám và/hoặc làm những xét nghiệm thăm dò đơn giản.
• Nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và ngộ độc thức ăn chiếm đa số các trường hợp nôn ói cấp tính.
• Phải luôn luôn nghi ngờ các tác dụng phụ của thuốc nếu gần đây mới bắt đầu dùng hoặc thay đổi liều lượng.
• Phải nghĩ đến thai nghén trên phụ nữ tuổi sinh đẻ.
• Cần cho nhập viện những trường hợp có bất thường chuyển hóa nặng, mất nước hoặc nghi ngờ nguyên nhân ngoại khoa.
• Trong nôn ói mạn tính, với nhiều nguyên nhân tiềm năng, cần hỏi bệnh sử và thăm khám toàn diện.
• Triệu chứng là những dấu hiệu dự báo kém cho bệnh thực thể so với rối loạn cơ năng.
• Hoàn cảnh xuất hiện nôn ói và bệnh cảnh lâm sàng là yếu tố chính chi phối việc chọn lựa chủng loại và phạm vi xét nghiệm thăm dò và việc thăm dò thêm phải thích ứng phải từng bệnh nhân cụ thể.
• Có thể điều trị thử bằng thuốc chống nôn ói hoặc thay đổi chế độ ăn trong khi chờ làm xét nghiệm thăm dò chuyên sâu.

Theo Andrew Metz & Geoff Hebbard, Australian Family Physician 2007; 36(9):688-92

Dowload pdf

Ung thư dạ dày, nhiễm helicobacter pylori và các yếu tố nguy cơ khác

Mở đầu

Ung thư vẫn là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ ba trên thế giới, sau bệnh tim mạch và bệnh nhiễm khuẩn. Năm 2002, ung thư dạ dày là loại ung thư phổ biến hàng thứ tư trên thế giới, với hơn 900.000 ca bệnh mới [Kamangar F và cs, 2006] và gần hai phần ba số trường hợp xảy ra ở các nước đang phát triển [Stewart BW & Kleihues P, 2003]. Tuy nhiên, ung thư dạ dày không có sự phân bố theo địa lý rõ rệt. Thật vậy, những nước có tỉ lệ thấp (như Ấn Độ) cũng là nước ở trong khu vực có nguy cơ cao nhất (tức châu Á). Tương tự, trong quần thể nguy cơ thấp, cũng có những phân nhóm có nguy cơ cao hơn (ví dụ người Hàn Quốc sống ở Mỹ) [Parkin DM và cs, 2002; Lambert R và cs, 2002].
Trong dân số chung, nguy cơ chuẩn hóa theo tuổi ở nam cao gần gấp đôi ở nữ. Ngoài ra, xuất độ ở phụ nữ ở một tuổi bất kỳ tương đương với xuất độ ở nam giới trẻ hơn 10 tuổi [Parkin DM và cs, 2002].
Trừ Nhật Bản, nơi mà các chương trình tầm soát đại trà đã giúp tăng tỉ lệ sống sót 5 năm lên khoảng 60%, ở phần lớn các nơi khác trên thế giới chỉ có 20% số bệnh nhân ung thư dạ dày là còn sống sau 5 năm [Parkin DM, 2001; Roukos DH & Kappas AM, 2005; Cunningham SC và cs, 2005].
Tỉ lệ tử vong chịu ảnh hưởng của một số yếu tố: xuất độ ung thư, giai đoạn bệnh lúc chẩn đoán, các yếu tố sinh học và đáp ứng cá nhân đối với điều trị đang dùng. Do đó, mọi can thiệp nhằm làm giảm xuất độ ung thư (tức loại trừ/thay đổi những yếu tố nguy cơ tiềm năng và/hoặc khuyến khích các yếu tố bảo vệ), chẩn đoán sớm (tức nhận diện và theo dõi những bệnh nhân tăng nguy cơ) hoặc cải thiện sự tiếp cận chăm sóc sức khỏe, sẽ giúp giảm tỉ lệ tử vong ung thư.Các yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày

Một số yếu tố nguy cơ đã được nhận diện đối với ung thư dạ dày ngoài tâm vị: nhiễm Helicobacter pylori, tình trạng kinh tế-xã hội thấp, hút thuốc, ăn thức ăn ướp muối và xông khói, ít dùng rau quả, và tiền sử gia đình có bệnh ung thư dạ dày.

Helicobacter pylori

Nhiễm H. pylori là một trong những nhiễm khuẩn hay gặp nhất trên người, dù tỉ lệ lưu hành thay đồi khá lớn giữa những nước khác nhau. Tỉ lệ nhiễm được nhận thấy giảm dẩn ở những khu vực có đời sống kinh tế-xã hội cao [Malaty HM, 2007]. Từ khi được khám phá vào năm 1984, H. pylori đã được thừa nhận là một nguyên nhân quan trọng của một số bệnh đường tiêu hóa trên, như loét dạ dày-tá tràng, ung thư biểu mô tuyến dạ dày, và lymphoma tế bào B nguyên phát ở dạ dày [Suerbaum S & Michetti P, 2002].
Nhiễm H. pylori là một yếu tố nguy cơ mạnh và đã được biết rõ của ung thư dạ dày và được Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) xếp loại là tác nhân gây ung thư nhóm 1 [IARC, 1994]. Đã có một số cơ chế bệnh sinh được đề xuất để giải thích vì sao nhiễm H. pylori có thể làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày, nhưng phần lớn các tác giả đều cho rằng tình trạng viêm mạn tính lâu ngày là cơ chế chính [Naumann M & Crabtree JE, 2004; Correa P & Houghton J., 2007].
H. pylori có khả năng thích nghi đặc biệt để sống trong môi trường acid thù địch ở dạ dày và sự trú đóng của H. pylori gây nên viêm dạ dày ở hầu hết số đối tượng bị nhiễm vi khuẩn này. Sự bám dính của vi khuẩn vào tế bào biểu mô gây nên một đáp ứng viêm, với sự tập trung của bạch cầu trung tính rồi sau đó là các tế bào lymphô B và T, đại thực bào và tương bào, phần lớn đều sản sinh một lượng lớn các nhóm ôxy hoặc nitơ phản ứng [Zhang QB và cs, 1996], những gốc tự do gây hư tổn tế bào biểu mô và sinh ung thư [Pignatelli B và cs, 1998; Wang YZ và cs, 2005].
Sự hư tổn niêm mạc dạ dày do nhiễm H. pylori còn có thể vì các yếu tố độc lực của vi khuẩn được mã hóa bởi “cag pathogenicity island” [Tên gọi đầy đủ là cytotoxin-associated gene pathogenicity island (cag-PAI), một hệ thống phân tiết týp IV (T4SS) đặc biệt, được mã hóa bởi các chủng Helicobacter pylori týp 1. T4SS được vi khuẩn sử dụng để trao đồi chất, ADN hoặc protein với môi trường bên ngoài (ND).], như cyto-toxin A tạo không bào (VacA) và protein CagA (CagA). VacA là một toxin được vi khuẩn tiết ra và đi vào màng tế bào biểu mô, tạo không bào và ảnh hưởng các ti thể, dẫn đến vong bào (apoptosis) [Galmiche A và cs, 2000; Kuck D và cs, 2001]. Trái lại, CagA khi vào trong tế bào biểu mô lại gây phát tín hiệu tăng sinh và vận động, cũng như sản xuất các cytokin [Keates S, và CS. 1999]. CagA gây nên sự biến đổi hình thái tế bào ký chủ qua cơ chế tương tác với protein SHP-2, một tyrosin phosphatase trong bào tương [Higashi H và cs, 2002]. Thật vậy, sau khi vào trong tế bào, trước tiên CagA được tyrosin-phosphoryl hóa bởi họ kinase Src, rồi sau đó gắn với SHP-2. Vì SHP-2 có vai trò quan trọng trong các hiện tượng tải nạp (transduction) do nhiều thụ thể tyrosin kinase khác nhau thực hiện, nên CagA gây rối loạn chức năng tế bào bằng cách làm mất chức năng điều hòa của SHP-2, ức chế sự tái phối trí khung tế bào, sự tăng sinh và làm tăng chuyển động trong tế bào biểu mô dạ dày [Higashi H và cs, 2002; 2004].
Ngoài ra, có giả thiết cho rằng tính đa hình của cag, vốn nằm trong chuỗi mã hóa gốc tyrosin, có thể là những biến số thiết yếu của kết cục lâm sàng khi bị nhiễm bởi các chủng H. pylori cag+ khác nhau. Thật vậy, H. pylori có thể chia thành hai phân nhóm chính dựa trên sự tyrosin-phosphoryl hóa/vị tri gắn SHP-2 khác nhau về mặt cấu trúc: chủng cag+ Đông Á và chủng cag+ phương Tây. Cụ thể, bệnh nhân bị nhiễm chủng Đông Á có tăng đáp ứng viêm, tổn thương tiền ung thư dạ dày ở mức cao hơn và có nguy cơ ung thư dạ dày lớn hơn so với bệnh nhân nhiễm các chủng vi khuẩn phương Tây [Higashi H và cs, 2004; Fock KM và cs, 2008].
Hơn nữa, nhiễm H. pylori cag+ làm tăng biểu hiện COX-2 ở niêm mạc dạ dày và ung thư [Guo XL và cs, 2003]. COX-2 thường không phát hiện được trong mô bình thường và trở nên phong phú ở nơi bị viêm và cũng có thể biểu hiện thái quá trong ung thư dạ dày. Sự biểu hiện thái quá của COX-2 dẫn đến tăng tổng hợp và phóng thích prostaglandin, như PGE2 chẳng hạn. Sự gia tăng prostaglandin này thúc đẩy quá trình sinh ung thư bằng cách đẩy mạnh tăng sinh tế bào, ức chế vong bào và làm tăng tính xâm lấn của tế bào ác tính [Yamac D và cs, 2008]. Sự biểu hiện COX-2 giảm đáng kể sau khi tiệt trừ H. pylori trên bệnh nhân viêm teo dạ dày, khẳng định vai trò then chốt của vi khuẩn trong cơ chế bệnh sinh qua COX-2 [Konturek PC và cs, 2003].
Ngày càng có nhiều bằng chứng khẳng định tầm quan trọng của sự biến thiên di truyền trong cơ chế bệnh sinh của ung thư dạ dày và những tổn thương tiền ung thư. Tính đa dạng cơ năng của TLR4, một thụ thể lipopolysaccharide (LPS) trên bề mặt tế bào tham gia vào sự nhận biết H. pylori và đáp ứng của ký chủ, có sự kết hợp với tăng mức độ viêm với sự hư tổn mô nặng trên người bị nhiễm H. pylori. Cụ thể, người mang tính đa dạng TLR4+896A>G có nhiều khả năng teo dạ dày và viêm nặng hơn và cũng tăng nguy cơ ung thư dạ dày ngoài tâm vị [Hold GL và cs, 2007].
Sau cùng, tính đa dạng và độ biến thiên di truyền của các yếu tố bệnh sinh thiết yếu như các gen cagA, TRL4 và SHP2 tỏ ra ảnh hưởng đến tiềm năng sinh ung thư của các chủng H. pylori. Do đó, điều quan trọng là nhận ra và phân biệt các chủng H. pylori hay gây ung thư và nhận diện những quần thể nguy cơ cao về mặt di truyền dễ mắc ung thư dạ dày.
Tuy có nhiều cơ chế phân tử khẳng định vai trò của H. pylori trong ung thư dạ dày, nhưng nhiễm H. pylori không được xem là ‘điều kiện đủ’ để phát bệnh ung thư [Fock KM và cs, 2008]. Thật vậy, chỉ một thiểu số đối tượng nhiễm vi khuẩn bị ung thư dạ dày, vì có nhiều yếu tố ký chủ và môi trường tác động hiệp lực trong căn bệnh đa yếu tố này.

Chế độ ăn

Chế độ ăn chắc chắn có một vai trò then chốt trong sự phát triển ung thư, như đã thấy với sự thay đổi xuất độ trên người nhập cư tùy theo nơi họ sống. Có nhiều bằng chứng khác nhau (từ các nghiên cứu sinh thái, bệnh-chứng và thuần tập) gợi ý rằng ăn nhiều thức ăn ướp muối, hoặc ăn mặn, cũng như nitrosamin trong cá xông khói và rau củ ngâm giấm (dưa chua) “có lẽ” làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày, như nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới/Tổ chức Lương Nông [WHO/FAO, 2003]. Thật vậy, sự biến thiên của tỉ lệ tử vong ung thư dạ dày theo vùng địa lý trên thế giới, đặc biệt là ở Nhật Bản, có tương quan với mức tiêu thụ muối hàng ngày [Joossens JV và cs, 1996]. Hơn nữa, sự giảm thấp xuất độ ung thư dạ dày ở Mỹ và châu Âu kết hợp với sự sử dụng rộng rãi phương pháp bảo quản lạnh thực phẩm hơn là ướp muối hoặc xông khói, và sự gia tăng tiêu thụ rau quả tươi.
Tuy nhiên, người ta vẫn chưa chứng minh được thành phần nào trong rau quả có tác dụng bảo vệ này. Stress ôxy-hóa có thể gây đột biến gen, điều biến chương trình vong bào và thúc đẩy quá trình sinh ung thư dạ dày [Thomson A và cs, 1998]. Do đó, các chất bổ sung chống ôxy-hóa (ví dụ β-caroten, α-tocopherol và vitamin C) đã được thăm dò rộng rãi nhưng những số liệu tốt nhất hiện có không cho thấy bất kỳ tác dụng có lợi nào trong việc đề phòng ung thư dạ dày [Bjelakovic G và cs, 2004].
Rất có thể nhiễm H. pylori và các yếu tố ẩm thực tác động hiệp lực với nhau để thúc đầy sự phát triển ung thư dạ dày. Những nghiên cứu tiền cứu trên người gặp những khó khăn về mặt phương pháp và hậu cần khi phải khảo sát cùng một lúc nhiều nguyên nhân hội tụ của bệnh. Thật vậy, để duy trì sự kiểm soát chặt chế độ ăn và hiện trạng nhiễm H. pylori rõ ràng là không thể thực hiện trong các nghiên cứu trên toàn bộ dân số. Do đó, một số mô hình thực nghiệm trên động vật đã được phát triển. Bằng chứng gần đây nhất, dựa trên các nghiên cứu thực hiện trên loài linh trưởng, gợi ý rằng nhiễm khuẩn lâu ngày đơn thuần hoặc chỉ ăn thực phẩm có nitrosamin có thể gây viêm niêm mạc dạ dày nhưng không gây ung thư, tuy rằng ung thư sẽ phát triển khi đồng thời có cả hai yếu tố này [Liu H và cs, 2009].

Bảng 1. Thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng với xuất độ ung thư dạ dày là số đo kết cục chính

Nghiên cứu Tỉnh, Nước Xuất độ ung thư dạ dày trong dân số chung Số bệnh nhân được ngẫu nhiên hóa
(điều trị/đối chứng)
Thời gian theo dõi Số bệnh nhân ung thư dạ dày
(điều trị/đối chứng)
Wong và cs, (2004) Phúc Kiến, Trung Quốc 99 ca /100 000 người/ năm 817/813 7,5 năm 7/11
(0,9%/1,4%)
Fukase và cs, (2008) Nhật Bản 62 ca /100 000 người/ năm 272/272 3 năm 9/24
(3,3%/8,8%)

Tiền sử gia đình và các hội chứng di truyền

Khoảng 10% số bệnh nhân ung thư dạ dày có thân nhân mắc bệnh này trong tiền sử gia đình, và ung thư dạ dày di truyền chỉ chiếm 1%-3% số trường hợp [Yaghoobi M và cs, 2010; Palli D và cs, 1994]. Nhiều nghiên cứu báo cáo sự gia tăng nguy cơ phát bệnh cao gấp 1,5 đến 3,5 lần trên thân nhân bậc một của bệnh nhân ung thư dạ dày [Dicken BJ và cs, 2005]. Hơn nữa, trong nghiên cứu của Brenner và cộng sự được công bố năm 2000, tiền sử gia đình ung thư dạ dày cho thấy một nguy cơ tương đối là 2,9 (KTC 95%: 1,3-6,5) và sự phát triển bệnh cũng kết hợp với tỉ lệ nhiễm H. pylori tăng cao. Đáng lưu ý là sự hiện diện của cả hai yếu tố (tiền sử gia đình ung thư dạ dày và nhiễm H. pylori) làm tăng nguy cơ phát bệnh gấp 8 lần. Có khi ung thư dạ dày được mô tả là một phần của một số hội chứng ung thư di truyền, như bệnh pôlýp u tuyến gia đình, hội chứng Peutz-Jeghers và hội chứng ung thư đại tràng gia đình không phải bệnh pôlýp.
Năm 1998, Guilford và cộng sự đã báo cáo những trường hợp đầu tiên của ung thư dạ dày lan tỏa di truyền (HDGC) [Caldas C và cs, 1999]. Các tác giả giới thiệu ba gia đình có ung thư dạ dày lan tỏa khởi phát sớm ở nhiều thế hệ. Ở cấp độ phân tử, các đột biến giao tử ở gen E-cadherin (CDH1) được tìm thấy ở những gia đỉnh này. Vì vậy, trong những gia đình có ít nhất hai người bị ung thư dạ dày lan tỏa, và ít nhất là một trường hợp khởi phát sớm (được chẩn đoán trước 50 tuổi), nên khuyến nghị xét nghiệm đột biến [Brooks-Wilson AR và cs, 2004]. Sau cùng, trên các đối tượng mang những đột biến gen CDH1 có hại, việc theo dõi nội soi tích cực không có gì bảo đảm và cách điều trị tiệt căn được đề nghị hiện nay là cắt bỏ dạ dày dự phòng để tránh sự phát triển căn bệnh chết người này.

Thanh toán Helicobacter pylori và nguy cơ ung thư dạ dày

Nhiễm H. pylori rõ ràng có sự tương quan với cơ chế bệnh sinh ung thư dạ dày. Bằng chứng ủng hộ mạnh nhất cho mối liên kết giữa nhiễm H. pylori và sự phát triển ung thư dạ dày là từ các nghiên cứu thuần tập tiền cứu. Một phân tích gộp các dữ liệu từ 12 nghiên cứu thuần tập tiền cứu cho thấy nguy cơ tăng gấp 6 lần sau 10 năm theo dõi [Helicobacter and Cancer Collaborative Group, 2001].
Tuy vậy, vẫn chưa khẳng định chắc chắn là liệu thanh toán H. pylori có phải là một chiến lược hóa dự phòng hữu hiệu để giảm nguy cơ ung thư dạ dày hay không. Đặc biệt, chỉ có hai nghiên cứu can thiệp, ngẫu nhiên, đối chứng [Wong BC và cs, 2004; Fukase K và cs, 2008] trong đó sự phát triển ung thư dạ dày là số đo kết cục chính (Bảng 1). Hai nghiên cứu này đều được thực hiện ở vùng có nguy cơ cao ung thư dạ dày là Trung Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, hai nghiên cứu ấy có thiết kế khác nhau. Nghiên cứu của Wong và cộng sự là nghiên cứu đối chứng giả dược và thu nhận bệnh nhân có hoặc không có tổn thương tiền ung thư ở dạ dày (ví dụ teo, dị sản hoặc loạn sản ruột), nhưng bệnh nhân có ung thư dạ dày giai đoạn đầu bị loại ra (Bảng 2). Trái lại, nghiên cứu của Fukase và cộng sự là nghiên cứu mở, thu nhận bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn đầu, mới được chẩn đoán hoặc được sắp xếp điều trị nội soi hoặc đang được theo dõi sau mổ cắt dạ dày (Bảng 2). Những bệnh nhân này được phân ngẫu nhiên để điều trị thanh toán vi khuẩn hoặc không điều trị.
Bảng 2. Mô học ban đầu trong các nghiên cứu với xuất độ ung thư dạ dày là số đo kết cục chính
Bảng 2. Mô học ban đầu trong các nghiên cứu với xuất độ ung thư dạ dày là số đo kết cục chính

Nghiên cứu Mô học ban đầu
Viêm dạ dày Teo Dị sản ruột Loạn sản Ung thư dạ dày sớma
Wong và cs, (2004) + + + +
Fukase và cs, (2008) + + +
aUng thư dạ dày sớm là ung thư mới chẩn đoán và có kế hoạch điều trị nội soi hoặc theo dõi sau mổ. +: được nhận vào; -: không được nhận vào

Trong nghiên cứu của Wong và cộng sự [2004], có 1630 bệnh nhân nhiễm H. pylori được được thu nhận và trong 7 năm theo dõi, có 7 trên 817 (0,9%) đối tượng ở nhóm thanh toán vi khuẩn và 11 trên 813 (1,3%) đối tượng nhóm giả dược phát bệnh ung thư dạ dày (P = 0,33). Tuy nhiên, phát hiện đáng quan tâm nhất là từ một phân tích hậu nghiệm. Ở nhóm điều trị thuốc có hoạt tính, không có bệnh nhân nào mà xét nghiệm mô học ban đầu cho thấy không có tổn thương tiền ung thư bị phát bệnh ung thư. Trái lại, tất cả bệnh nhân bị phát bệnh ung thư dạ dày đều có tổn thương tiền ung thư khi nhận vào nghiên cứu. Wong và cộng sự kết luận rằng điều trị thanh toán vi khuẩn nhằm mục đích dự phòng chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của quá trình sinh ung thư, trước khi phát triển các tổn thương tiền ung thư, và họ gợi ý một “điểm bất khả hồi (“ point of no return”) trong chuỗi sự kiện dẫn đến ung thư dạ dày.
Trong một nghiên cứu đa trung tâm, Fukase và cộng sự [2008] đã thu nhận 544 bệnh nhân, và sau 3 năm theo dõi thấy có 9 trên 272 bệnh nhân ở nhóm điều trị tiệt trừ vi khuẩn và 24 trên 272 bệnh nhân ở nhóm không điều trị bị phát bệnh ung thư dạ dày. Điều trị thanh toán vi khuẩn làm giảm có ý nghĩa nguy cơ phát triển ung thư sau điều trị nội soi, với OR = 0,353 (KTC 95%: 0,161-0,775, P = 0,009). Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng về tác dụng dự phòng của điều trị thanh toán H. pylori thậm chí trong các giai đoạn sau của quá trình sinh ung thư, hoàn toàn trái ngược với kết luận của Wong và cộng sự. Có nhiều lý do có thể giải thích cho sự khác biệt này: thiết kế nghiên cứu, cỡ mẫu, kỹ thuật đánh giá nội soi, định nghĩa mô học và thời gian theo dõi.
Hơn nữa, một kết luận quan trọng khác có thể rút ra từ hai nghiên cứu trên là ung thư dạ dày có thể tiếp tục phát triển dù đã thanh toán H. pylori và bắt buộc phải theo dõi nội soi để chẩn đoán sớm. Kết luận này càng được củng cố bởi một tổng phân tích các nghiên cứu ngẫu nhiên đối chứng mới được công bố gần đây, so sánh nhóm điều trị thanh toán vi khuẩn với nhóm giả dược hoặc nhóm không điều trị, cung cấp số liệu về số ung thư dạ dày đã phát triển trong giai đoạn theo dõi sau nghiên cứu [Fuccio Lvà cs, 2009]. Trong xét nghiệm mô học lúc ban đầu, phần lớn các đối tượng đều có chẩn đoán teo dạ dày, dị sản hoặc loạn sản ruột. Qua thời gian theo dõi từ 4 đến 10 năm, có 33 trên 3112 bệnh nhân (1,0%) đã điều trị thanh toán vi khuẩn bị phát bệnh ung thư dạ dày, so với 50 trên 3031 bệnh nhân đối chứng (1,6%); sự khác biệt này cho thấy nguy cơ tương đối là 0,65 (KTC 95%: 0,42-1,01, P = 0,05). Như vậy, điều trị tiệt trừ H. pylori làm giảm được chút ít nguy cơ dạ dày ngay cả trên các đối tượng đã có tổn thương tiền ung thư, dù rằng nguy cơ không bị triệt tiêu hẳn [Fuccio L và cs, 2009].
Theo các hướng dẫn hiện hành, phải xét nghiệm và điều trị nhiễm H. pylori trên bệnh nhân có tiền sử gia đình ung thư dạ dày, bị viêm teo dạ dày và sau mổ cắt bỏ dạ dày [Fock KM và cs, 2009]. Hơn nữa, trong những cộng đồng có xuất độ cao ung thư dạ dày, nên xem xét áp dụng chiến lược tầm soát và điều trị.
Cần có thêm các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng đa trung tâm để khẳng định tác dụng dự phòng của việc thanh toán H. pylori trên nguy cơ ung thư dạ dày. Tuy nhiên, những nghiên cứu can thiệp như thế là khó khả thi vì lý do đạo đức, phương pháp và tài chính.

Sự phát triển ung thư dạ dày sau thanh toán Helicobacter pylori

Trong nghiên cứu của Fuccio L và cộng sự năm 2009), 1,0% số bệnh nhân vẫn phát triển ung thư dạ dày dù đã điều trị thanh toán H. pylori thành công. Gần đây, có báo cáo rằng khối u có thể phát triển sau nhiều năm điều trị thanh toán vi khuẩn [de Vries AC và cs, 2009]. Không nên quên rằng ung thư dạ dày, cũng như các loại u bướu khác, là một bệnh do nhiều yếu tố và giải quyết một yếu tố không thể ngăn ngừa được tất cả các trường hợp ung thư. Theo dõi nội soi vẫn rất cần thiết, đặc biệt là trên các đối tượng có nguy cơ cao. Tuy vậy, một định nghĩa rõ ràng thế nào là đối tượng “nguy cơ cao” vẫn còn là đề tài tranh cãi. Người ta đã biết rõ rằng nguy cơ ung thư dạ dày thay đổi tùy loại tổn thương tiền ung thư ban đầu. Thật vậy, một nghiên cứu thuần tập trên qui mô toàn quốc được thực hiện ở Hà Lan [de Vries AC và cs, 2009] cho thấy trong 5 năm đầu theo dõi, bệnh nhân có chẩn đoán loạn sản grade thấp thì nguy cơ ung thư hàng năm là 0,6%, còn ở bệnh nhân loạn sản grade cao thì nguy cơ này là 6,0%. Trái lại, bệnh nhân viêm teo dạ dày và dị sản ruột, theo thứ tự, có nguy cơ ung thư hàng năm là 0,1% và 0,25% trong 5 năm đầu theo dõi.
Do đó, những bệnh nhân có chẩn đoán lúc ban đầu là loạn sản phải được quản lý kỹ và theo dõi nội soi chặt chẽ hơn so với bệnh nhân viêm teo dạ dày hoặc dị sản ruột. Tuy vậy, hiện không có tài liệu hướng dẫn quốc tế nào ở các nước phương Tây gợi ý nên theo dõi nội soi ra sao, bao lâu một lần và kéo dài trong bao nhiêu năm trên bệnh nhân có tổn thương tiền ung thư ở dạ dày sau khi điều trị thanh toán H. pylori.
Trong tương lai, việc sử dụng thường qui hệ thống phân giai đoạn mô học mới được đề xuất (ví dụ như OLGA) [Fuccio L và cs, 2008; Fuccio L và cs, 2007] và việc nhận diện rõ hơn những yếu tố nguy cơ trên ký chủ và vi khuẩn có thể giúp phân loại chính xác hơn những bệnh nhân cần theo dõi nội soi.

Kết luận
Tuy xuất độ ung thư dạ dày đang giảm, nhưng còn quá sớm để cho rằng đây là bệnh ung thư hiếm gặp và tỉ lệ tử vong trên thế giới vẫn cao. Dự phòng cấp một là chiến lược khả thi vì phần lớn các yếu tố nguy cơ đều có thể loại bỏ được. Tuy nhiên, ung thư dạ dày là một bệnh do nhiều yếu tố nên việc giải quyết một yếu tố (ví dụ nhiễm H. pylori) không đề phòng được tất cả các trường hợp. Theo dõi nội soi vẫn cần thiết, đặc biệt là trên các đối tượng có nguy cơ cao. Dù định nghĩa bệnh nhân nguy cơ cao chưa được xác định rõ, nhưng sẽ hợp lý khi xem những bệnh nhân có tiền sử gia đình ung thư dạ dày, bệnh nhân có tổn thương tiền ung thư, và bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư dạ dày từ trước là người có nguy cơ cao. Tất cả các yếu tố nguy cơ dễ xử trí, như bỏ thuốc lá, ăn nhiều rau quả và điều trị tiệt trừ H. pylori, cần được xem như là chiến lược phòng bệnh. Định nghĩa bệnh nhân nguy cơ cao, cũng như việc tìm ra một chiến lược giám sát tốt nhất cho những bệnh nhân ấy. là sự thách thức trong tương lai.
Lorenzo F và cs., J Gastrointest Oncol 15/9/2010; 2(9): 342-347,

Người dịch: BS, Nguyễn Triển

Download pdf

Hướng dẫn dự phòng bệnh tim mạch ở phụ nữ dựa vào hiệu quả: cập nhật năm 2011 của hội tim hoa kỳ (aha)

Bệnh tim là nguyên nhân hàng đầu của tử vong ở phụ nữ tại các nước phát triển và phần lớn các nước có nền kinh tế đang phát triển. Do bệnh tim mạch của phụ nữ có ảnh hưởng trên sức khỏe và kinh tế với qui mô khắp thế giới, nên cần có những nỗ lực mạnh mẽ để kiểm soát các yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh tim mạch và áp dụng các hình thức trị liệu dựa vào chứng cứ trên phụ nữ. Năm 2004, Hội Tim Hoa Kỳ (AHA), phối hợp với nhiều tổ chức khác, đã mở rộng trọng tâm nghiên cứu chú ý hơn đến các khuyến nghị lâm sàng chuyên biệt theo giới và đã tài trợ cho dự án “Hướng dẫn dự phòng bệnh tim mạch ở phụ nữ dựa vào chứng cứ” và cập nhật những hướng dẫn này vào năm 2007. Kinh nghiệm cho thấy đại đa số các khuyến nghị dự phòng bệnh tim mạch đều tương tự nhau giữa nam và nữ, với một ít ngoại lệ chẳng hạn như aspirin được khuyên dùng một cách thường qui để dự phòng cấp một nhồi máu cơ tim trên nam giới, nhưng không được khuyên dùng ở phụ nữ (Mosca L, 2008; Berger JS và cs,2006).
Tuy nhiên, càng ngày người ta càng nhận thức được rằng có thể có những khác biệt theo giới về biên độ của những nguy cơ và lợi ích tiềm năng của các can thiệp dự phòng. Rõ ràng có những yếu tố nguy cơ đặc thù của phụ nữ (ví dụ mang thai) và khi mắc bệnh tim mạch phụ nữ thường lớn tuổi hơn và có nhiều bệnh đi kèm hơn so với nam giới. Những hướng dẫn hiện nay đều nói đến việc dự phòng các kết cục tim mạch do xơ vữa mạch máu và huyết khối, nhưng đa số dữ liệu được dùng để xây dựng những hướng dẫn này đều là số liệu lấy từ các nghiên cứu dự phòng bệnh mạch vành. Một bước tiến lớn từ tài liệu hướng dẫn cập nhật năm 2007 đến bản cập nhật 2011 là tính hiệu quả (lợi ích và nguy cơ được nhận thấy trong thực hành lâm sàng) của các liệu pháp dự phòng được xem xét kỹ hơn và các khuyến nghị không chỉ khu trú vào các chứng cứ chứng minh hiệu quả (lợi ích được nhận thấy trong các thử nghiệm lâm sàng); vì vậy có sự chuyển đổi từ các hướng dẫn “dựa vào chứng cứ” sang hướng dẫn “dựa vào tính hiệu quả” để phòng bệnh tim mạch trên phụ nữ.
Đánh giá nguy cơ bệnh tim mạch

Không hoạt động thể lực

Tiền sử gia đình có bệnh tim mạch sớm xảy ra ở thân nhân bậc một trên nam giới <55 tuổi hoặc phụ nữ <65 tuổi.

Hội chứng chuyển hóa

Có bằng chứng xơ vữa mạch máu rõ ràng dưới ngưỡng lâm sàng (ví dụ calci-hóa động mạch vành, mảng xơ động mạch cảnh hoặc dày lớp nội-trung mạc động mạch cảnh)
Khả năng gắng sức kém trên nghiệm pháp thảm lăn và/hoặc có nhịp tim bất thường sau khi ngừng vận động gắng sức

Bảng 1. Phân loại nguy cơ bệnh tim mạch ở phụ nữ

Trạng thái nguy cơ Tiêu chí
Nguy cơ cao (≥1 trạng thái nguy cơ cao) · Bệnh mạch vành có biểu hiện lâm sàng
· Bệnh mạch máu não có biểu hiện lâm sàng
· Bệnh động mạch ngoại biên có biểu hiện lâm sàng
· Phình động mạch chủ bụng
· Bệnh thận mạn tính hoặc giai đoạn cuối
· Tiểu đường
· Nguy cơ bệnh tim mạch 10 năm dự kiến ≥10%
Có nguy cơ (≥1 yếu tố nguy cơ quan trọng) · Hút thuốc
· HA tâm thu ≥120 mmHg, HA tâm trương ≥80 mmHg, hoặc cao huyết áp được điều trị
· Cholesterol toàn phần ≥200 mg/dL, HDL-C <50 mg/dL, hoặc được điều trị rối loạn lipid-máu
· Béo phì, đặc biệt là béo bụng
· Chế độ ăn thiếu lành mạnh
Sức khỏe tim mạch lý tưởng (có đủ tất cả các tiêu chí) · Cholesterol toàn phần <200 mg/dL (không điều trị)
· HA <120/<80 mmHg (không điều trị)
· Đường huyết lúc đói <100 mg/dL (không điều trị)
· Chỉ số thân khối <25 kg/m2
· Không hút thuốc
· Hoạt động thể lực đạt đích của người lớn >20 tuổi: ≥150 phút /tuần với cường độ vận động trung bình, ≥75 phút/tuần với vận động nặng
· Chế độ ăn lành mạnh

Bảng 2. Phân loại và mức chứng cứ

Phân loại và mức chứng cứ Độ mạnh khuyến nghị
Phân loại
Loại I Can thiệp hữu ích và có hiệu quả
Loại IIa Chứng cứ/ý kiến có sức nặng ủng hộ cho sự hữu ích/hiệu quả
Loại IIb Chứng cứ/ý kiến ủng hộ không chứng minh rõ cho sự hữu ích/hiệu quả
Loại III Thủ thuật/xét nghiệm không hữu ích hoặc điều trị không cho thấy lợi ích
Thủ thuật/xét nghiệm quá tốn kém mà không có lợi ích hoặc nguy hại, hoặc điều trị nguy hiểm cho bệnh nhân
Mức chứng cứ
A Có đủ chứng cứ từ nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên
B Chứng cứ hạn chế từ một thử nghiệm ngẫu nhiên duy nhất hoặc từ các nghiên cứu không ngẫu nhiên hóa
C Dựa trên ý kiến chuyên gia, nghiên cứu hàng loạt ca hoặc qui trình điều trị chuẩn

Bệnh collagen-mạch máu tự miễn toàn thân (ví dụ lupus hoặc viêm khớp dạng thấp)
Tiền sử tiền sản giật, tiểu đường thai kỳ, hoặc cao huyết áp do thai ngén
Trong bản cập nhật năm 2007, một thuật đồ mới để phân loại nguy cơ trên phụ nữ đã được đề xuất, chia phụ nữ làm 3 loại: “nguy cơ cao” khi có bằng chứng bệnh tim mạch, tiểu đường, suy thận mạn giai đoạn cuối, hoặc nguy cơ 10 năm dự kiến của bệnh mạch vành >20%; “có nguy cơ” khi có ≥ 1 yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim mạch, hội chứng chuyển hóa, bằng chứng bệnh mạch máu dưới ngưỡng lâm sàng (ví dụ calci-hóa động mạch vành), hoặc kém dung nạp gắng sức khi dùng nghiệm pháp thảm lăn, “nguy cơ tối ưu” khi chỉ số nguy cơ Framingham <10%, không có các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch quan trọng, và có một lối sống lành mạnh. Cách phân loại nguy cơ này vẫn được áp dụng trong bản cập nhật 2011 với một vài thay đổi (Bảng 1). Trước tiên, AHA gần đây đã đưa ra một khái niệm mới là “sức khỏe tim mạch lý tưởng”, được định nghĩa là không có bệnh tim mạch lâm sàng và có tất cả các mức lý tưởng của cholesterol toàn phần (<200 mg/dL), huyết áp (<120/80 mmHg), và đường huyết lúc đói (<100 mg/dL), đồng thời có các hành vi lành mạnh bao gồm chỉ số thân khối (BMI) nạc (<25 kg/m2), không hút thuốc, tham gia các hoạt động thể lực ở mức được khuyến nghị, và có chế độ ăn tránh cao huyết áp (Lloyd-Jones DM, và cs, 2010).
Những thay đổi khác trong thuật đồ phân loại nguy cơ là sự thừa nhận tính khả dụng của một số phương trình ước lượng nguy cơ để tiên đoán nguy cơ toàn cục của bệnh tim mạch trong 10 năm, như chỉ số nguy cơ bệnh tim mạch Framingham cập nhật và điểm số nguy cơ Reynolds đối với phụ nữ (D’Agostino và cs, 2008; Ridker PM và cs, 2007). Trong bối cảnh đó, bản cập nhật này khuyên dùng một điểm cắt mới để xác định nguy cơ cao đối với tất cả các bệnh tim mạch, chứ không riêng gì bệnh mạch vành, khi nguy cơ 10 năm ≥10%.Hướng dẫn dự phòng bệnh tim mạch ở phụ nữ

Có ba chiến lược chính để dự phòng bệnh tim mạch trên phụ nữ: thay đổi lối sống, can thiệp vào các yếu tố nguy cơ quan trọng, và dự phòng bằng thuốc. Dưới đây sẽ trình bày tóm tắt các biện pháp dự phòng này.

1. Can thiệp lối sống

Hút thuốc

Nên khuyên phụ nữ đừng hút thuốc và tránh môi trường có khói thuốc. Nên tham vấn mỗi khi có cơ hội, dùng chất thay thế nicotin và các điều trị khác bằng thuốc, kết hợp với một chương trình thay đổi hành vi hoặc bỏ thuốc lá. (Loại I; mức chứng cứ B).

Hoạt động thể lực

Nên hoạt động thể lực (cộng dồn) ít nhất 150 phút/tuần ở mức vừa phải, 75 phút/tuần ở mức vận động nặng, hoặc tập thể dục với mức vận động tương đương. Thời gian tập thể dục mỗi lần ít nhất là 10 phút và tập rải đều trong cả tuần. (Loại I; mức chứng cứ B).
Để tăng thêm lợi ích tim mạch, có thể tăng thời gian tập thể dục ở mức vận động vừa phải lên 5 giờ (300 phút)/tuần, 2,5 giờ/tuần nếu hoạt động thể lực nặng (Loại I; mức chứng cứ B).
Nên tham gia các hoạt động làm tăng sức cơ ở tất cả các nhóm cơ chính, với thời lượng ≥2 ngày/tuần (Loại I; mức chứng cứ B).
Phụ nữ muốn giảm cân hoặc duy trì mức giảm cân nên hoạt động thể lực (cộng dồn) ít nhất là 60 đến 90 phút ở mức vận động vừa phải (ví dụ đi bộ rảo bước) vào phần lớn các ngày trong tuần hoặc tốt nhất là cả 7 ngày trong tuần (Loại I; mức chứng cứ B).

Phục hồi chức năng tim

Một chế độ toàn diện giảm nguy cơ bệnh tim mạch như phục hồi chức năng tim mạch hoặc đột quỵ hay một chương trình tập luyện thể lực được bác sĩ hướng dẫn hoặc dựa vào cộng đồng cần được khuyến nghị cho những phụ nữ gần đây có một hội chứng mạch vành cấp hoặc tái thông mạch vành, đau thắt ngực mới khởi phát hoặc mạn tính, mới bị tai biến mạch máu não, có bệnh động mạch ngoại biên (Loại I; mức chứng cứ A) hoặc đã/đang có triệu chứng suy tim và phân suất tống máu thất trái ≤35% (Loại I; mức chứng cứ B).

Chế độ ăn

Nên ăn nhiều rau quả; chọn hạt ngũ cốc còn nguyên vỏ lụa, thức ăn nhiều chất xơ; nên ăn cá, đặc biệt là cá béo (oily fish), ít nhất 2 lần/tuần; hạn chế chất béo bão hòa, cholesterol, rượu, natri, và đường; tránh các acid béo trans. (Loại I; mức chứng cứ B).
Riêng phụ nữ có thai nên tránh ăn cá có tiềm năng nhiễm một lượng thủy ngân cao (ví dụ cá nhám, cá lưỡi kiếm, cá thu).

Giảm cân/giữ cân

Nên giữ cân hoặc giảm cân bằng cách cân đối giữa hoạt động thể lực và thu nạp calori, hoặc tham gia các chương trình tập luyện khi có chỉ định để đạt được một cân nặng thích hợp (ví dụ BMI <25 kg/m2 đối với phụ nữ Mỹ), vòng eo (<88 cm), hoặc các số đo giới hạn của béo phì (Loại I; mức chứng cứ B).

Acid béo omega-3

Đối với phụ nữ tăng cholesterol-máu và/hoặc tăng triglycerid-máu, có thể xem xét cho dùng acid béo omega-3 dưới dạng cá hoặc dạng viên nang (ví dụ acid eicosapentaenoic [EPA] 1800 mg/ngày) để dự phòng cấp một và cấp hai (Loại IIb; mức chứng cứ B).
Ghi chú: Các thực phẩm bổ sung dầu cá có lượng EPA và DHA biến thiên khá lớn.

2. Can thiệp vào các yếu tố nguy cơ quan trọng

Huyết áp: mức tối ưu và lối sống

Nên khuyến khích phụ nữ đạt mức huyết áp tối ưu <120/80 mmHg thông qua các biện pháp lối sống như kiểm soát cân nặng, tăng hoạt động thể lực, uống rượu vừa phải, và ăn nhiều rau quả và các sản phẩm ít chất béo (Loại I; mức chứng cứ B).

Huyết áp: điều trị thuốc

Điều trị thuốc được chỉ định khi huyết áp ≥140/90 mmHg (≥130/80 mmHg khi có bệnh thận mạn tính và tiểu đường).
Thuốc lợi tiểu thiazid phải là một phần trong phác đồ điều trị đối với phần lớn bệnh nhân trừ khi có chống chỉ định hoặc nếu có chỉ định thuyết phục để dùng thuốc khác trong những bệnh mạch máu cụ thể. Điều trị ban đầu đối với phụ nữ có nguy cơ cao hội chứng mạch vành cấp hoặc nhồi máu cơ tim nên dùng thuốc chẹn b và/hoặc thuốc ức chế men chuyển/thuốc chẹn thụ thể angiotensin, cộng thêm các thuốc khác như thiazid khi cần, để đạt huyết áp đích (Loại I; mức chứng cứ A).
Ghi chú: thuốc ức chế men chuyển bị chống chỉ định trên phụ nữ có thai và nên thận trọng khi dùng trên phụ nữ có thể sắp mang thai.

Nồng độ lipid và lipoprotein: mức tối ưu và lối sống

Nên khuyến khích phụ nữ đạt nồng độ lipid và lipoprotein sau đây thông qua các biện pháp lối sống: LDL-C <100 mg/dL, HDL-C >50 mg/dL, triglycerid <150 mg/dL, và non–HDL-C (cholesterol toàn phần trừ cho HDL) <130 mg/dL (Loại I; mức chứng cứ B).

Lipid: điều trị thuốc để hạ thấp LDL-C trên phụ nữ nguy cơ cao

Liệu pháp thuốc hạ LDL-C được khuyên dùng đồng thời với các biện pháp thay đổi lối sống trên phụ nữ có bệnh mạch vành để đạt nồng độ LDL-C <100 mg/dL (Loại I; mức chứng cứ A) và cũng được chỉ định trên phụ nữ có bệnh tim mạch khác do xơ vữa mạch máu hoặc có bệnh tiểu đường hoặc có nguy cơ tuyệt đối 10 năm >20% (Loại I; mức chứng cứ B).
Mức giảm còn <70 mg/dL là hợp lý đối với phụ nữ có nguy cơ rất cao (ví dụ người mới có hội chứng mạch vành cấp hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch không được kiểm soát tốt) có bệnh mạch vành và cần dùng phối hợp thuốc hạ LDL (Loại IIa; mức chứng cứ B).

Lipid: điều trị thuốc để hạ thấp LDL-C trên những phụ nữ có nguy cơ khác

Hạ thấp LDL-C bằng liệu pháp thay đổi lối sống tỏ ra hữu ích nếu nồng độ LDL-C ≥130 mg/dL, có nhiều yếu tố nguy cơ, và nguy cơ tuyệt đối 10 năm của bệnh mạch vành từ 10% đến 20% (Loại I; mức chứng cứ B).
Liệu pháp nói trên cũng hữu ích nếu nồng độ LDL-C ≥160 mg/dL và có nhiều yếu tố nguy cơ, nếu nguy cơ tuyệt đối 10 năm của bệnh mạch vành <10% (Loại I; mức chứng cứ B).
Hạ thấp LDL-C bằng liệu pháp thay đổi lối sống cũng hữu ích nếu LDL = 190 mg/dL bất kể có hay không có các yếu tố nguy cơ khác hoặc bệnh tim mạch (Loại I; mức chứng cứ B).
Trên phụ nữ >60 tuổi có nguy cơ ước lượng của bệnh mạch vành >10%, có thể xem xét dùng statin nếu hsCRP >2 mg/dL sau khi thay đổi lối sống và không có quá trình viêm cấp tính (Loại IIb; mức chứng cứ B).

Lipid: điều trị thuốc đối với HDL-C thấp hoặc non–HDL-C cao

Có thể dùng niacin hoặc fibrat khi HDL-C thấp (<50 mg/dL) hoặc non–HDL-C cao (>130 mg/dL) ở phụ nữ có nguy cơ cao sau khi đạt được đích LDL-C (Loại IIb; mức chứng cứ B).

Tiểu đường

Liệu pháp lối sống và điều trị thuốc có thể hữu ích trên phụ nữ tiểu đường nhằm đạt được HbA1C <7% nếu có thể thực hiện được mà không làm hạ đường huyết có ý nghĩa (Loại IIa; mức chứng cứ B).

3. Can thiệp dự phòng bằng thuốc

Aspirin: phụ nữ nguy cơ cao

Nên dùng aspirin (75–325 mg/ngày) trên phụ nữ có bệnh mạch vành trừ khi bị chống chỉ định (Loại I; mức chứng cứ A).
Liệu pháp aspirin (75–325 mg/d) tỏ ra hợp lý trên phụ nữ tiểu đường trừ khi bị chống chỉ định (Loại IIa; mức chứng cứ B).
Nếu một phụ nữ nguy cơ cao có chỉ định điều trị nhưng không dung nạp aspirin, có thể thay bằng clopidogrel (Loại I; mức chứng cứ B).

Aspirin: phụ nữ khỏe mạnh hoặc có mức nguy cơ khác

Aspirin có thể hữu ích trên phụ nữ ≥65 tuổi (81 mg/ngày hoặc 100 mg cách nhật) nếu huyết áp được kiểm soát và lợi ích đối với việc đề phòng đột quỵ và nhồi máu cơ tim có nhiều khả năng vượt trội hơn nguy cơ xuất huyết tiêu hóa và xuất huyết não (Loại IIa; mức chứng cứ B) và có thể hợp lý đối với phụ nữ <65 tuổi để đề phòng nhũn não (Loại IIb; mức chứng cứ B).

Aspirin: rung nhĩ

Nên dùng aspirin 75–325 mg/ngày trên phụ nữ có rung nhĩ đột phát hoặc mạn tính bị chống chỉ định dùng warfarin hoặc có nguy cơ thấp đột quỵ (<1%/năm hay điểm số CHADS2 <2) (Loại I; mức chứng cứ A).

Warfarin: rung nhĩ

Đối với phụ nữ có rung nhĩ đột phát hoặc mạn tính, nên dùng warfarin để duy trì INR từ 2,0 đến 3,0 trừ khi họ được xem là có nguy cơ thấp đột quỵ (<1%/năm hoặc nguy cơ cao xuất huyết) (Loại I; mức chứng cứ A).

Dabigatran: rung nhĩ

Dabigatran là thuốc thay thế hữu ích cho warfarin để dự phòng đột quỵ và thuyên tắc huyết khối trên bệnh nhân có rung nhĩ đột phát hoặc thường xuyên và có các yếu tố nguy cơ của đột quỵ hoặc thuyên tắc nhưng không có van tim nhân tạo hoặc bệnh van tim có ý nghĩa về mặt huyết động, suy thận nặng (thanh thải creatinin 15 mL/phút), hoặc có bệnh gan tiến xa (suy chức năng đông máu) (Loại I; mức chứng cứ B).

Thuốc chẹn b

Nên dùng thuốc chẹn b lên đến 12 tháng (Loại I; mức chứng cứ A) hoặc đến 3 năm (Loại I; mức chứng cứ B) trên tất cả phụ nữ sau nhồi máu cơ tim hoặc hội chứng mạch vành cấp với chức năng thất trái bình thường trừ khi có chống chỉ định.
Nên điều trị thuốc chẹn b dài hạn hoặc vĩnh viễn đối với phụ nữ suy thất trái trừ khi có chống chỉ định (Loại I; mức chứng cứ A).
Có thể xem xét điều trị thuốc chẹn b dài hạn trên những phụ nữ khác có bệnh mạch vành hoặc bệnh mạch máu và chức năng thất trái bình thường (Loại IIb; mức chứng cứ C).

Thuốc ức chế men chuyển/chẹn thụ thể angio-tensin

Nên dùng thuốc ức chế men chuyển (trừ khi có chống chỉ định) trên phụ nữ sau nhồi máu cơ tim và trên người có bằng chứng lâm sàng của suy tim, phân suất tống máu thất trái ≤40%, hoặc tiểu đường (Loại I; mức chứng cứ A).
Trên phụ nữ sau nhồi máu cơ tim và trên người có bằng chứng lâm sàng của suy tim, phân suất tống máu thất trái ≤40% hoặc tiểu đường, không dung nạp thuốc ức chế men chuyển thì nên thay bằng thuốc chẹn thụ thể angiotensin (Loại I; mức chứng cứ B).
Ghi chú: thuốc ức chế men chuyển bị chống chỉ định trong thai kỳ và nên thận trọng khi dùng cho những phụ nữ có thể sắp mang thai.

Chẹn aldosterone

Sử dụng thuốc chẹn aldosterone (ví dụ spirololactone) sau nhồi máu cơ tim được chỉ định trên phụ nữ không bị hạ huyết áp có ý nghĩa, rối loạn chức năng thận, hoặc tăng kali-máu đang dùng liều điều trị của một thuốc ức chế men chuyển và thuốc chẹn b và có phân suất tống máu thất trái ≤40% kèm suy tim có triệu chứng (Loại I; mức chứng cứ B).

BS Nguyễn Triển tóm dịch theo Lori Mosca và cs, Circulation. 2011;123

Download pdf

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người việt

Hồ Phạm Thục Lan* Đoàn Công Minh** Phạm Ngọc Khánh*** Phạm Ngọc Hoa**** Nguyễn Đình Nguyên*****, Nguyễn Văn Tuấn*****
*Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch; Khoa Khớp, Bệnh viện 115;
**Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
*** Khoa Khớp, Bệnh viện 115
****Bệnh viện ChợRẫy, Thành phốHồChí Minh, Việt Nam;
*****Đại học New South Wales và Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, Sydney, Australia

Tóm lược
Mục tiêu của công trình nghiên cứu này là khảo sát mối tương quan giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) và tỉ trọng mỡ cơ thể (percentage of body fat, hay PBF), và qua đó tìm một chuẩn mới của PBF để chẩn đoán béo phì cho người Việt. Chúng tôi đo PBF bằng máy DXA (Hologic QDR4500) và các chỉ số nhân trắc, kể cả BMI, trên 870 nữ và 357 nam tuổi từ 15 trở lên tại TP Hồ Chí Minh. Các đối tượng nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên trong cộng đồng theo qui trình chọn mẫu ngẫu nhiên. Tính chung, BMI ở nam giới là 22.7±3.0 kg/m2 (trung bình ± độ lệch chuẩn) và nữ giới là 22.3±3.5 kg/m2. Chỉ có 1,4% nam và 1,8% nữ có BMI≥30, trong khi đó 6,5% nam và 5,0% nữ có BMI≥27,5. Những nghiên cứu trước đây cho thấy BMI≥27,5 có liên quan đến gia tăng nguy cơ tử vong. PBF trung bình ở nam giới là 24,1±5,6%, thấp hơn nữ (34.7±5.2%). Hệ số tương quan giữa BMI và PBF là 0,51. Dựa vào mối tương quan giữa PBF và BMI, chúng tôi ước tính rằng PBF≥30 cho nam và PBF≥40 cho nữ tương đương với BMI≥27,5. Dựa vào tiêu chuẩn PBF≥30/40, kết quả nghiên cứu cho thấy có 17% nam và 18% nữ có thể xem là béo phì. Những kết quả này cho thấy chuẩn BMI≥30 hay BMI≥27,5 có thể dẫn đến sai sót trong chẩn đoán béo phì. Trong khi chưa có nghiên cứu ở người Việt về mối liên quan giữa BMI hay PBF và tử vong, chúng tôi đề nghị lấy ngưỡng PBF≥30 (nam) và PBF≥40 (nữ) để chẩn đoán béo phì ở người Việt.

Abstract
DETERMINATION OF BOFY FAT PERCENTAGE AS AN APPROACH FOR DIAGNOSIS OF OBESITY IN VIETNAMESE ADULTS
The present study sought to examine the relationship between body mass index (BMI) and percentage of body fat (PBF), and through which to derive new PBF thresholds for the diagnosis of obesity in Vietnamese men and women. We measured PBF by DXA (Hologic QDR4500) and obtained anthropometric indices from 870 women and 357 men aged 15 years or above. The individuals were selected from various districts within Ho Chi Minh City according to a simple random sampling scheme. Overall, BMI in men and women was 22.7±3.0 kg/m2 and 22.3 ±3.5 kg/m2 (mean ± standard deviation [SD]), respectively. Only 1.4% of men and 1.8% of women had BMI ≥30 kg/m2. Approximately 6.5% of men and 5.0% of women had BMI≥27.5, the level that was associated with an increased risk of mortality. Average PBF in men was 24.1±5.6%, approximately 10% lower than that in women (34.7±5.2%). The coefficient of correlation between BMI and PBF was 0.51. For a given BMI category, there was a large between-subject difference in PBF. Based on the relationship between PBF and BMI, we found that PBF≥30 in men and PBF≥40 in women were corresponding to BMI≥27.5. Using the new criteria of PBF≥30/40, 17% of men and 18% of women could be considered obese. These results clearly show that the threshold of BMI≥30 or BMI≥27.5 can lead to misdiagnosis of obesity in Vietnamese men and women. We propose to use the PBF≥30 (in men) and PBF≥40 (in women) for the diagnosis of obesity in the Vietnamese population.

Dẫn nhập
Béo phì được ghi nhận là một trong những vấn đề y tế công cộng lớn ở các nước đã phát triển và ở châu Á,(1-3) vì bệnh gắn liền với sự tăng nguy cơ tử vong cũng như nguy cơ mắc các bệnh lý mạn tính nguy hiểm như đái tháo đường, tim mạch, ung thư.(4) Nhưng tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì vẫn chưa hoàn chỉnh. Hiện nay, béo phì được chẩn đoán dựa vào chỉ số khối cơ thể (BMI), hay có khi gọi là Quetelet index do nhà toán học Adolphe Quetelet phát triển vào thế kỷ 19. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bất cứ cá nhân trưởng thành nào có chỉ số BMI bằng hoặc cao hơn 30 kg/m2 được xem là “béo phì”.(5) Chuẩn này được áp dụng cho rất nhiều nơi trên thế giới, và được xem là một thước đo quan trọng để đánh giá qui mô béo phì trong một quần thể.
Chuẩn BMI ≥30 có thể không phù hợp cho người châu Á. Một số nghiên cứu mới nhất cho thấy ở người châu Á, nguy cơ tử vong gia tăng ngay cả khi BMI thấp hơn 30 kg/m2. Thật vậy, hai công trình nghiên cứu qui mô ở Trung Quốc(6) và Singapore(7) mà trong đó các nhà nghiên cứu theo dõi một quần thể lớn trong thời gian 10 năm, cho thấy ở nam và nữ dưới 65 tuổi, nguy cơ tử vong tăng cao khi BMI vượt quá ngưỡng 27 kg/m2. Ngưỡng này cũng phù hợp với khuyến cáo của một nhóm chuyên gia của WHO sau khi xem xét bằng chứng khoa học,(8) mà theo đó BMI ≥27,5 có thể xem là có nguy cơ cao (“higher high risk”).

Nhưng BMI là một chỉ số không hoàn hảo. BMI được phát triển để làm một thước đo gián tiếp phản ánh lượng mỡ trong cơ thể (vì vào thế kỷ 19 chưa có máy đo lượng mỡ trong cơ thể). BMI thực chất là tỉ số của trọng lượng trên bình phương chiều cao. Bởi vì trọng lượng bao gồm phần lớn hai thành tố là lượng nạc (lean mass) và lượng mỡ (fat mass), và trong khi lượng mỡ mới thật sự là yếu tố cần quan tâm trong thực hành lâm sàng, cho nên BMI không phản ảnh được tỉ trọng mỡ trong cơ thể. Chính vì khiếm khuyết này mà một số vận động viên có khi bị chẩn đoán là béo phì vì họ nặng cân dù rằng có ít lượng mỡ và nhiều lượng nạc.

Chỉ số “vàng” để chẩn đoán béo phì là tỉ trọng mỡ trong cơ thể (percentage of body fat, hay PBF). Thật vậy, béo phì được định nghĩa là lượng mỡ trong người tăng cao đến mức có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe. Do đó, tiêu chuẩn thích hợp nhất phải là lượng mỡ trong cơ thể so với trọng lượng.(9) Ngày nay, có nhiều phương pháp để ước tính lượng mỡ trong cơ thể và PBF. Phương pháp vàng hiện nay là công nghệ DXA (dual X-ray absorptio-metry). Một số nhà nghiên cứu cho rằng với cùng một ngưỡng BMI, PBF ở người châu Á cao hơn người châu Âu,(10, 11) và do đó, họ đề nghị tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Á châu là BMI ≥25 kg/m2. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy một cơ sở khoa học vững vàng nào cho đề nghị này. Ngược lại, chúng tôi đã chứng minh trong một nghiên cứu gần đây rằng, khi đo tỉ trọng mỡ bằng máy DXA, ở bất cứ ngưỡng BMI nào, tỉ trọng mỡ ở phụ nữ Việt Nam và Mỹ (da trắng) không khác nhau.(9) Ngoài ra, một số chuyên gia còn đề nghị lấy PBF ≥25% ở nam và PBF ≥35% ở nữ làm tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì. Một nhóm nhà nghiên cứu Singapore(10) báo cáo rằng tiêu chuẩn PBF trên là do Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo.(12) Có nhiều nghiên cứu khác(13-18) đã công bố trên các tập san y khoa quốc tế sử dụng tiêu chuẩn PBF 25/35 vừa đề cập trên. Tuy nhiên, khi kiểm tra tài liệu của WHO, chúng tôi không tìm thấy bất cứ một chỗ nào có đề cập đến hai tiêu chuẩn trên! Do đó, có thể nói rằng tiêu chuẩn PBF mà nhiều người đang đề cập thật ra là tiêu chuẩn ảo, không có thật trong thực tế.

Hiện nay, chúng ta biết được (i) mối liên quan giữa BMI và tử vong, cũng như ngưỡng BMI dẫn đến gia tăng nguy cơ tử vong ở người châu Á; và (ii) chúng ta cũng biết được BMI không phải là một chuẩn vàng để chẩn đoán béo phì vì BMI không phản ảnh tỉ trọng mỡ trong cơ thể. Tuy nhiên, chúng ta chưa biết được (a) mối liên quan giữa BMI và PBF (đo bằng máy DXA); và (b) cũng chưa biết được ngưỡng PBF để chẩn đoán béo phì cho người châu Á. Do đó, trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ giải quyết hai khoảng trống tri thức trên, bằng cách phân tích mối tương quan giữa BMI và PBF, và qua đó xác định tiêu chuẩn PBF để chẩn đoán béo phì cho nam và nữ.
Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu

Đây là một công trình nghiên cứu một thời điểm (còn gọi là “nghiên cứu cắt ngang”), mà theo đó dữ liệu được thu thập hay đo lường tại một thời điểm duy nhất. Mô hình nghiên cứu này thích hợp với mục tiêu xác định giá trị tham chiếu và ước tính tỉ lệ hiện hành, cũng như phân tích tương quan giữa các yếu tố trong một quần thể. Tất cả đối tượng nghiên cứu được giải thích về mục tiêu và qui trình nghiên cứu, ký tên ưng thuận. Công trình nghiên cứu được sự phê chuẩn của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học của Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Đối tượng nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ các quận trong Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi liên lạc với cộng đồng địa phương như nhà thờ để có danh sách đối tượng, và chọn ngẫu nhiên những nam và nữ khoẻ mạnh bình thường, tuổi từ 18 trở lên (không giới hạn tuổi tối đa), đang sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Dựa vào danh sách cung cấp, chúng tôi sử dụng hàm “sample” trong phần mềm R để chọn ngẫu nhiên đối tượng phân chia theo độ tuổi. Chúng tôi nhờ lãnh đạo nhà thờ và các nhóm cộng đồng mời các đối tượng tham gia vào công trình nghiên cứu. Các đối tượng với các bệnh liên quan đến chuyển hóa xương, hay đang dùng các thuốc có ảnh hưởng đến chuyển hóa calci, hay đang dùng thuốc ngừa thai, hay mắc các bệnh ảnh hưởng đến hấp thu đường tiêu hóa không được tham gia vào nghiên cứu. Ngoài ra, các cá nhân có bệnh và nằm tại giường từ 2 tháng trở lên cũng không tham gia vào nghiên cứu.

Dữ liệu thu thập

Đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu được một bác sĩ hay y sĩ trực tiếp phỏng vấn để thu thập các thông tin lâm sàng và đo lường các chỉ số nhân trắc. Một bộ câu hỏi (gồm trên 100 câu hỏi) được thiết kế để thu thập các dữ liệu liên quan đến các yếu tố nhân trắc, tiền sử lâm sàng, lối sống, vận động thể lực, thói quen ăn uống, tiền sử gãy xương, và tiền sử té ngã. Độ tuổi được tính từ ngày sinh đến ngày tham gia vào chương trình nghiên cứu. Chỉ số khối cơ thể được tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho bình phương chiều cao (m).
Mỗi đối tượng nghiên cứu còn cung cấp các thông tin về thói quen hút thuốc lá trong quá khứ và hiện tại. Tương tự, thói quen uống bia rượu cũng được thu thập qua hàm lượng và thời gian dùng bia rượu. Đối tượng còn được hỏi về thời gian phơi nắng mỗi ngày và những việc làm có tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Thời gian phơi nắng hay tiếp xúc với ánh nắng mặt trời được tính bằng số giờ cho mỗi tuần.

Phương pháp đo tỉ trọng mỡ

Tố chất cơ thể (lượng nạc và mỡ) được đo bằng máy Hologic QDR Apex 4500. Máy được chuẩn hóa bằng phanton 30 phút trước mỗi đợt đo. Vị trí đo là xương toàn thân. Chúng tôi tính tỉ trọng mỡ trong cơ thể bằng cách lấy trọng lượng mỡ chia cho trọng lượng cơ thể.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là (a) xác định mối tương quan giữa lượng mỡ hoặc PBF và BMI và ý nghĩa của việc chẩn đoán béo phì, và (b) xác định ngưỡng PBF sao cho tương đương với ngưỡng BMI có liên quan đến gia tăng nguy cơ tử vong.
Để đáp ứng mục tiêu thứ nhất, chúng tôi sử dụng mô hình hồi qui bội để tìm hiểu mối liên quan giữa PBF và BMI. Theo đó,

được chọn làm hàm số mô tả; trong đó, p = 1, 2, 3,…; a và bi là thông số cần ước tính; và e là “phần dư” của mô hình. Chúng tôi tìm p sao cho mô hình tối ưu, và mô hình tối ưu được đánh giá bằng chỉ số Akaike Information Criterion (AIC).
Với mục tiêu thứ hai, chúng tôi phân nhóm theo BMI, dựa vào đề nghị của WHO.(8) Theo đó, BMI được chia thành 4 nhóm như sau: nhóm thiếu cân nếu BMI <18,5; nhóm “bình thường” với BMI trong khoảng 18,5 và 22,9; nhóm “dư cân” với BMI trong khoảng 23 và 27,4; và nhóm có “nguy cơ cao” với BMI ≥27,5. Chú ý rằng WHO không dùng thuật ngữ “béo phì” (obesity) trong cách phân nhóm dựa vào BMI. Chúng tôi dựa vào kết quả phần (a) để tìm một ngưỡng PBF sao cho tương đương với BMI ≥27,5. Vì giá trị PBF khác biệt giữa nam và nữ, nên mô hình trên được áp dụng cho hai giới riêng biệt. Toàn bộ phân tích sẽ tiến hành bằng phần mềm R(19) với các lệnh trong thư viện Design.(20)

Kết quả
Công trình nghiên cứu bao gồm 870 nữ và 357 nam, tuổi từ 15 trở lên. Tuổi trung bình ở nam là 43,5 tuổi, thấp hơn nữ (48,6). Như có thể dự kién, tính bình quần nam có trọng lượng và chiều cao cao hơn nữ. BMI ở nam (22,7 kg/m2) cao hơn nữ (22,3 kg/m2) chỉ khoảng 0,4 đơn vị. Tuy nhiên, tỉ trọng mỡ ở nữ là ~35%, cao hơn 11% so với tỉ lệ ở nam (24%). Mặt khác, nam có lượng nạc cao hơn nữ (44 kg so với 32 kg (Bảng 1).

Phân bố BMI

Có sự khác biệt về mối tương quan giữa BMI và độ tuổi giữa nam và nữ. Ở nữ, BMI tăng theo độ tuổi với tốc độ cao hơn nam (Biểu đồ 1). Ở nữ độ tuổi 60-70, BMI trung bình là 23, tăng 3 kg/m2 so với độ tuổi 20. Ở nam, trong khoảng tuổi trên (70 và 20) BMI chỉ tăng 1,4 kg/m2. Tính chung, chỉ có 1,4% nam và 1,8% nữ có BMI ≥30 kg/m2. Biểu đồ 2 thể hiện sự phân bố BMI ở nam và nữ theo cách phân nhóm do WHO khuyến cáo. Theo cách phân nhóm này, có 6,5% nam (n = 23/354) và 5% nữ (n = 43/863) có BMI ≥27,5. Cần nói thêm rằng BMI ≥27,5 là ngưỡng gia tăng nguy cơ tử vong ở người châu Á.(6,7)

Bảng 1. Đặc điểm nhân trắc và tỉ trọng mỡ cơ thể của nam và nữ

Biến số Nam Nữ Trị số P
N 870 357
Độ tuổi (năm) 43,5 (18,6) 48,6 (16,5) <0,0001
Trọng lượng (kg) 62,1 (9,6) 52,4 (8,6) <0,0001
Chiều cao (cm) 165,1 (6,7) 153,3 (5,5) <0,0001
BMI (kg/m2) 22,7 (3,0) 22,3 (3,5) 0,041
Lượng mỡ (kg) 14,9 (5,1) 18,2 (4,9) <0,0001
Tỉ trọng mỡ (%) 24,1 (5,6) 34,7 (5,2) <0,0001
Lượng nạc (kg) 43,8 (5,8) 32,0 (4,0) <0,0001

Bảng 2. BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể (PBF) theo nhóm tuổi và giới

Nhóm tuổi Nam Nữ
BMI PBF BMI PBF
15 – 19 22,9 (3,3) 24,9 (6,2) 20,0 (2,3) 30,1 (5,2)
20 – 29 21,7 (2,6) 22,2 (6,0) 20,1 (2,1) 31,6 (4,4)
30 – 39 22,7 (2,7) 22,2 (5,5) 21,7 (2,5) 32,8 (4,8)
40 – 49 23,9 (3,4) 24,1 (4,8) 22,7 (5,5) 34,5 (4,6)
50 – 59 23,3 (3,0) 24,9 (5,0) 23,0 (3,1) 35,6 (4,6)
60 – 69 21,4 (3,1) 24,2 (6,4) 23,2 (3,1) 37,4 (5,0)
70+ 23,1 (2,7) 27,9 (4,7) 23,0 (3,2) 36,5 (5,5)

Ghi chú: Số liệu là trung bình và độ lệch chuẩn (trong ngoặc).

Bảng 3. BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể theo nhóm BMI và giới

Nhóm BMI Nam Nữ
BMI PBF BMI PBF
<18,5 17,4 (0,9) 16,8 (4,5) 17,3(1,03) 27,6 (4,1)
18,5 –2,9 21,31(1,2) 22,6 (5,3) 20,9 (1,3) 33,4 (4,2)
23,0 –7,4 24,8 (1,2) 26,6 (4,5) 24,7 (1,3) 37,8 (3,7)
27,5+ 28,9 (1,7) 29,4 (3,5) 29,5 (2,4) 41,7 (3,4)

Ghi chú: Số liệu là trung bình và độ lệch chuẩn (trong ngoặc).

Bảng 4. Mối tương quan giữa tỉ trọng mỡ cơ thể (PBF) và BMI: kết quả phân tích hồi qui bội

Yếu tố tiên lượng PBF Hệ số hồi qui (b) và sai số chuẩn Trị số P
Nam
Trị số chặn (intercept) -34,25 (9,20) <0,0001
Tuổi 0,05 (0,012) 0,0002
BMI 4,03 (0,800) <0,0001
BMI2 -0,065 (0,017) 0,0003
Nữ
Trị số chặn (intercept) -2,89 (1,51) 0,066
Tuổi 0,043 (0,008) <0,0001
BMI 2,07 (0,10) <0,0001
BMI2 -0,021 (0,001) <0,0001

Biểu đồ 1. Mối tương quan giữa BMI và độ tuổi ở nam (màu xanh) và nữ (màu đen). Biểu đồ hộp thể hiện độ phân bố của BMI và độ tuổi cho toàn bộ quần thể nghiên cứu.

 


Biểu đồ 2. Phân bố BMI ở nam (biểu đồ bên trái) và nữ (biểu đồ bên phải). Số trên mỗi phần là tỉ lệ phần trăm (cộng chung bằng 100).

Phân bố PBF

Mối tương quan giữa tỉ trọng mỡ cơ thể và độ tuổi cũng khác biệt giữa nam và nữ (Biểu đồ 3). Tính trung bình trong độ tuổi 20 đến 90, tỉ trọng mỡ tăng khoảng 0,06% mỗi năm tuổi ở nam, nhưng ở nữ, tỉ lệ này là 0,11%. Ở nam, tỉ trọng mỡ cơ thể trong độ tuổi 20-30 là 22% và ở độ tuổi 60+ vẫn dao động trong khoảng 22-23%. Tuy nhiên, ở nữ, tỉ trọng mỡ cơ thể ở độ tuổi 20-30 là ~32% và tăng lên 37% ở độ tuổi 60+ (Bảng 2).
Bảng 3 cho thấy trong mỗi nhóm BMI, PBF dao động giữa các cá nhân khá cao. Chẳng hạn như ngay cả ở nhóm BMI 18,5 – 23 (được xem là “bình thường”), tỉ trọng mỡ cơ thể ở nữ là 33,4% (với độ lệch chuẩn là 4,2%), và ở nam là 22,6 (độ lệch chuẩn 5,3).


Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa tỉ trọng mỡ cơ thể (PBF) và độ tuổi ở nam (màu xanh) và nữ (màu đen)

Mối tương quan giữa BMI và PBF

Mối tương quan giữa BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể PBF cho nam và nữ được thể hiện qua Biểu đồ 4. Như có thể dự kiến, ở bất cứ ngưỡng BMI nào, tỉ trọng mỡ ở nữ cũng cao hơn nam. Ở bất cứ ngưỡng BMI nào cũng có sự dao động lớn về PBF giữa các cá nhân. Mối liên quan giữa BMI và PBF có thể mô tả tốt nhất bằng hàm bậc hai. Hệ số tương quan giữa BMI và PBF ở nam là 0,59 và nữ là 0,61. Nói cách khác, BMI chỉ “giải thích” được khoảng 36% phương sai (độ dao động) của PBF giữa các cá nhân trong quần thể.
Khi phân tích hồi qui đa thức, chúng tôi ghi nhận được hai yếu tố tiên lượng PBF: độ tuổi và BMI (Bảng 4). Theo kết quả phân tích, tỉ trọng mỡ cơ thể tăng khoảng 0,05% mỗi năm (ở nam) và 0,04% / năm (ở nữ), sau khi điều chỉnh cho mối liên quan giữa PBF và BMI. Kết quả còn cho thấy mối tương quan giữa BMI và PBF biến chuyển theo BMI. Khi BMI trong khoảng 15 – 30, PBF tăng theo hàm tuyến tính, nhưng hệ số hồi qui của BMI bình phương (BMI2) cho thấy ở ngưỡng BMI cao (trên 30), PBF có xu hướng không tăng, mà có thể giảm.

Ngưỡng PBF để chẩn đoán béo phì

Để xác định ngưỡng BMI cho chẩn đoán béo phì, chúng tôi tìm hiểu về mối liên quan giữa BMI và tử vong. Có hai công trình nghiên cứu qui mô ở Trung Quốc(6) và Singapore(7) mà trong đó các nhà nghiên cứu theo dõi một quần thể lớn trong thời gian 10 năm. Kết quả của hai nghiên cứu khá nhất quán: ở nam và nữ dưới 65 tuổi, nguy cơ tử vong tăng cao khi BMI vượt qua ngưỡng 27 kg/m2, và ngưỡng này nhất quán với ngưỡng BMI ≥27,5 do WHO khuyến cáo.(8) Dựa vào kết quả phân tích trình bày trong Bảng 4, chúng tôi ước tính rằng BMI = 27,5 tương đương với PBF 30 ở nam và 40 ở nữ. Trong quần thể này, có 17,5% (n = 62) nam có PBF ≥30, và 17,7% (n = 153) nữ có PBF ≥40.


Biểu đồ 4: Mối tương quan giữa tỉ trọng mỡ cơ thể (trục tung) và BMI (trục hoành) cho nam (màu xanh) và nữ (màu đen). Biểu đồ hình hộp phản ánh độ phân phối của tỉ trọng mỡ cơ thể và BMI trong quần thể nghiên cứu


Biểu đồ 5. Tỉ lệ PBF > 30% (nam, màu xanh) và PBF > 40% (nữ, màu đen) theo nhóm BMI.

Biểu đồ 5 trình bày sự sai sót có thể mắc phải trong “chẩn đoán” béo phì nếu dựa vào BMI. Chẳng hạn như trong nhóm người có BMI ≥27,5, có 52% nam (12/23) có PBF ≥30 và 74% nữ (32/43) có PBF ≥40. Nói cách khác, nếu sử dụng BMI ≥27,5 là chuẩn để chẩn đoán béo phì, có đến 48% nam và 26% nữ bị chẩn đoán sai vì họ không béo phì. Ngược lại, trong nhóm BMI 23-27,4, có đến 26% nam PBF ≥30 và 33% nữ có PBF ≥40.

Bàn luận
Vấn đề béo phì đã và đang trở thành một gánh nặng y tế ở các nước đang phát triển như nước ta. Tuy nhiên, việc chẩn đoán béo phì ở người châu Á vẫn còn là một vấn đề nan giải. Tiêu chuẩn “vàng” để chẩn đoán béo phì là tỉ trọng mỡ cơ thể, vì chỉ số này đáng tin cậy nhất và có thể đo lường một cách chính xác bằng máy DXA. Tuy nhiên, ở nhiều nước đang phát triển, máy DXA vẫn chưa phổ biến, hay ngay cả phổ biến cũng chưa thể ứng dụng trong lâm sàng thường xuyên do vấn đề chi phí xét nghiệm. Do đó, BMI vẫn được xem là một chỉ số thực tế có thể sử dụng trong việc chẩn đoán béo phì. Nhưng BMI không phải là một chỉ số hoàn hảo, bởi vì như nghiên cứu này cho thấy BMI không phản ảnh được tỉ trọng mỡ trong cơ thể. Ngoài ra, BMI còn có thể sai vì đơn giản là bệnh nhân không nhớ chính xác được chiều cao và trọng lượng của mình. Do đó, việc dùng chỉ số BMI cho chẩn đoán béo phì đã bị rất nhiều phê bình.(18, 21-25)
Bất cứ một ngưỡng chẩn đoán nào cũng nên dựa vào kết cục lâm sàng (clinical outcome). Kết cục lâm sàng có ý nghĩa y tế nhất có lẽ là tử vong. Trong quá khứ nhiều nghiên cứu về mối liên quan giữa tử vong và BMI đã được thực hiện ở người Âu Mỹ, và kết quả cho thấy nguy cơ tử vong tăng nhanh khi BMI bằng hoặc cao hơn 30. Do đó, ngưỡng BMI ≥30 được lấy làm tiêu chuẩn chẩn đoán cho người Âu Mỹ, và WHO cũng đề nghị dùng tiêu chuẩn này trên toàn thế giới.
Cho đến khoảng 10 năm trước đây, chưa có những nghiên cứu qui mô về mối liên quan giữa BMI và tử vong ở người châu Á. Tuy nhiên, ở người Á châu, bệnh đái tháo đường và tim mạch thường hay thấy ở những người có chỉ số BMI thấp hơn 30, thậm chí thấp hơn 25.(16, 25) Xuất phát từ lý do này, các chuyên gia đề nghị tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Á châu phải thấp hơn người da trắng, và đã chọn BMI 25 kg/m2 làm ngưỡng chẩn đoán béo phì cho người Á châu.(8) Nếu dùng BMI ≥25 kg/m2, số người Việt béo phì là khoảng 27% nam và 22% nữ. Tuy nhiên, ngưỡng BMI ≥25 không dựa vào một bằng chứng khoa học nào đáng tin cậy.
Khoảng 15 năm qua tồn tại một giả định rằng nếu hai người châu Á và châu Âu (da trắng) có cùng BMI và cùng tuổi, thì người châu Á có nhiều lượng mỡ hơn(11,14,16,24,26) người châu Âu. Từ đó, một số chuyên gia đề nghị rằng ngưỡng chẩn đoán béo phì cho người châu Á là PBF ≥25 cho nam và PBF ≥35 cho nữ. Trong quần thể người Việt, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có đến 51% nam và nữ có thể xem là béo phì nếu dựa vào chuẩn PBF ≥25 cho nam và PBF ≥35 cho nữ! Rất khó có thể nói rằng tần suất 51% là thuyết phục. Nhưng có hai vấn đề ở đây. Thứ nhất, giả định về sự khác biệt tỉ trọng mỡ giữa người châu Âu và châu Á không đúng. Thật vậy, trong một nghiên cứu mới đây, chúng tôi chứng minh rằng tỉ trọng mỡ ở phụ nữ Việt Nam tương đương với tỉ lệ mỡ ở phụ nữ Mỹ gốc châu Âu,(9) hay nói cách khác là không có khác biệt về tỉ trọng mỡ giữa người châu Á và châu Âu. Vấn đề thứ hai là hoàn toàn không có một cơ sở khoa học nào cho chuẩn PBF ≥25 cho nam và PBF ≥35 cho nữ. Chúng tôi phát hiện rằng chuẩn này hoàn toàn không có trong tài liệu của WHO mà các nhà nghiên cứu Singapore phát biểu. Nói tóm lại, các kết quả trên cho thấy ngưỡng BMI 30 kg/m2 hay 25 kg/m2 dùng để chẩn đoán béo phì cho người châu Á cần được xem xét lại.
Gần đây, đã có một số nghiên cứu phân tích mối liên quan giữa BMI và tử vong ở người châu Á. Nghiên cứu ở Trung Quốc 6) và Singapore(7) theo dõi trên 150.000 nam và nữ trong 10 năm, và phát hiện rằng ngưỡng BMI ≥27 có liên quan đến gia tăng nguy cơ tử vong. Năm 2004, các chuyên gia WHO cũng đề nghị lấy ngưỡng BMI ≥27,5 làm ngưỡng xác định “nguy cơ cao”. Ở Việt Nam, một nghiên cứu trên 978 người tuổi từ 25-74 ở Hà Nội(27) cho thấy có khoảng 2,1% nam và 2,2% nữ có BMI ≥27. Nhưng một nghiên cứu khác ở TPHCM(28) báo cáo 6,4% có BMI ≥27. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận 6,2% nam và 4,7% nữ có BMI ≥27,5. Trong nghiên cứu ở Trung Quốc,(6) có đến 12% đối tượng có BMI ≥27. Nghiên cứu ở Singapore cho thấy có 10,3% (5316 / 51251) có BMI ≥27,5.
Nhưng như đề cập trên, BMI chỉ là một chỉ số gián tiếp để chẩn đoán béo phì. Trong thời gian qua, việc dùng BMI để chẩn đoán béo phì đã gặp rất nhiều phê bình gay gắt.(18,21-25). Bởi vì trọng lượng bao gồm hai cấu phần chính là lượng mỡ (fat mass) và lượng nạc, và hai cấu phần này có thể khác biệt giữa các cá nhân, cho nên công thức BMI không phản ảnh chính xác tình trạng béo phì cho một cá nhân.(24) Như nghiên cứu này cho thấy hai người có thể có cùng BMI, nhưng tỉ lệ mỡ hoàn toàn khác nhau.
Tỉ trọng mỡ cơ thể PBF là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán béo phì, vì PBF trực tiếp đo lường lượng mỡ trong cơ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đo lường PBF và theo dõi đối tượng một thời gian dài để biết được mối liên hệ giữa PBF và tử vong. Do đó, dù PBF được xem là tiêu chuẩn vàng, nhưng ngưỡng PBF để chẩn đoán béo phì vẫn chưa được xác định. Trong nghiên cứu này, qua tìm hiểu hàm số tương quan giữa BMI và PBF, chúng tôi có thể ước tính ngưỡng PBF ≥30 (nam) và PBF ≥40 (nũ) tương đương với BMI ≥27,5 (tức ngưỡng có nguy cơ tử vong cao). Và, dựa vào chuẩn mới này, chúng tôi ước tính rằng có khoảng 18% cư dân TP.HCM đang ở trong tình trạng béo phì, hiểu theo nghĩa có nguy cơ tử vong cao. Mặc dù tỉ lệ hiện hành này vẫn còn thấp so với các nước Âu Mỹ (nơi mà tỉ lệ béo phì hay BMI ≥30 dao động trong khoảng 25 đến 30%),(29) nhưng vẫn là một tỉ lệ khá cao.
Những dữ liệu của nghiên cứu này cần phải diễn giải trong khuôn khổ của một số ưu điểm và nhược điểm. Đây là một công trình nghiên cứu béo phì qui mô có đo tỉ trọng mỡ bằng máy DXA ở Việt Nam và một trong những nghiên cứu qui mô nhất trong vùng Á châu, bao gồm cả nam và nữ, đảm bảo đầy đủ số liệu cho việc phân tích xác định các thông số cần thiết cho việc xác định mối tương quan giữa BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể. Các đối tượng nam và nữ được chọn một cách ngẫu nhiên trong cộng đồng qua những tiêu chuẩn lâm sàng, do đó kết quả mang tính hợp lý ngoại tại (external validity) cao. Một ưu điểm khác của nghiên cứu là sử dụng công nghệ DXA, một công nghệ chuẩn để đo thành phần cơ thể. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu cũng có một số nhược điểm. Trước hết, đây là một nghiên cứu cắt ngang, cho nên không thể suy luận về mối liên hệ nhân quả giữa BMI và tỉ trọng mỡ. Vì không có dữ liệu về tử vong nên chúng tôi phải dựa vào dữ liệu nước ngoài (Trung Quốc và Singapore) những nơi có thể khác với Việt Nam về tỉ lệ tử vong. Nghiên cứu được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà dinh dưỡng và lối sống có thể khác biệt so với cư dân nông thôn, nên có thể xem những kết quả này chưa đại diện cho quần thể ở nông thôn, hay cho toàn quốc.
Tóm lại, những kết quả của nghiên cứu cho thấy chuẩn BMI≥30 hay BMI≥27,5 có thể dẫn đến sai sót trong chẩn đoán béo phì ở người Việt. Dựa vào mối liên hệ giữa BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể PBF, giữa BMI và nguy cơ tử vong, chúng tôi xác định được ngưỡng tỉ trọng mỡ ≥30% cho nam và ≥40% cho nữ là ngưỡng có thể sử dụng cho chẩn đoán béo phì ở người Việt. Với ngưỡng mới này, chúng tôi ước tính rằng tỉ lệ béo phì trong cộng động cư dân TPHCM là khoảng 18%, một qui mô rất đáng quan tâm. Chúng tôi đề nghị nghiên cứu tiếp chuẩn mới này trong các quần thể độc lập để đi đến một chuẩn thống nhất cho toàn quốc.
Cảm tạ
Công trình nghiên cứu này được sự hỗ trợ một phần từ Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM, và chương trình hợp tác Viện – Trường trong khổ của Ủy hội Đại học Bỉ. Chúng tôi cám ơn Bs Trần Sơn Thạch (Bệnh viện Hùng Vương và Viện nghiên cứu y khoa Garvan) đã có một số góp ý góp phần cải tiến bản thảo của bài báo. Chúng tôi chân thành cám ơn Linh mục Phạm Bá Lãm, Linh mục Vũ Minh Danh, các ông Phạm Doãn Phong, Lương Thành Phát, Nguyễn Công Phú, và Tiền Ngọc Tuấn đã tích cực hỗ trợ cho chương trình nghiên cứu của chúng tôi, kể cả khuyến khích các giáo dân tham gia vào công trình nghiên cứu. Chúng tôi cũng chân thành ghi nhận sự giúp đỡ quý báu của Bs Lê Thị Ngọc Linh thuộc Bệnh viện Nhân dân 115; và các sinh viên thuộc Trường Đại học Y Phạm Ngọc Thạch: Nguyễn Thị Thanh Mai, Nguyễn Hải Đăng, Võ Thị Thúy An, Nguyễn Thị Thanh Thảo, Nguyễn Trịnh Bảo An, Mai Duy Linh, Nguyễn Vũ Đạt, Diêm Đăng Khoa, và Trần Hồng Bảo đã hết lòng giúp đỡ trong việc hướng dẫn và phỏng vấn các đối tượng nghiên cứu.

Tài liệu tham khảo
1.Yoon KH, Lee JH, Kim JW, Cho JH, Choi YH, Ko SH, Zimmet P, Son HY (2006) Epidemic obesity and type 2 diabetes in Asia. Lancet 368:1681-1688.
2.Ogden CL, Carroll MD, Curtin LR, McDowell MA, Tabak CJ, Flegal KM (2006) Prevalence of overweight and obesity in the United States, 1999-2004. Jama 295:1549-1555.
3.Cameron AJ, Welborn TA, Zimmet PZ, Dunstan DW, Owen N, Salmon J, Dalton M, Jolley D, Shaw JE (2003) Overweight and obesity in Australia: the 1999-2000 Australian Diabetes, Obesity and Lifestyle Study (AusDiab). Med J Aust 178:427-432.
4.Whitlock G, Lewington S, Sherliker P, Clarke R, Emberson J, Halsey J, Qizilbash N, Collins R, Peto R (2009) Body-mass index and cause-specific mortality in 900,000 adults: collaborative analyses of 57 prospective studies. Lancet 373:1083-1096.
5.WHO (2000) Obesity: preventing and managing the global epidemic. Report of a WHO consultation. WHO Technical Report Series 894:1-253.
6.Gu D, He J, Duan X, Reynolds K, Wu X, Chen J, Huang G, Chen CS, Whelton PK (2006) Body weight and mortality among men and women in China. Jama 295:776-783.
7.Odegaard AO, Pereira MA, Koh WP, Gross MD, Duval S, Yu MC, Yuan JM BMI, all-cause and cause-specific mortality in Chinese Singaporean men and women: the Singapore Chinese health study. PLoS One 5:e14000.
8.WHO (2004) Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and intervention strategies. Lancet 363:157-163.
9. Ho-Pham LT, Lai TQ, Nguyen ND, Barrett-Connor E, Nguyen TV Similarity in percent body fat between white and Vietnamese women: implication for a universal definition of obesity. Obesity (Silver Spring) 18:1242-1246.

10. Deurenberg P, Yap M, van Staveren WA (1998) Body mass index and percent body fat: a meta analysis among different ethnic groups. Int J Obes Relat Metab Disord 22:1164-1171.
11. Wang J, Thornton JC, Russell M, Burastero S, Heymsfield S, Pierson RN, Jr. (1994) Asians have lower body mass index (BMI) but higher percent body fat than do whites: comparisons of anthropometric measurements. Am J Clin Nutr 60:23-28.
12. WHO (1995) Physical status: the use and interpretation of anthropometry. Report of a WHO Expert Consultation. WHO Technical Report Series 854.
13. Ko GT, Tang J, Chan JC, Sung R, Wu MM, Wai HP, Chen R (2001) Lower BMI cut-off value to define obesity in Hong Kong Chinese: an analysis based on body fat assessment by bioelectrical impedance. Br J Nutr 85:239-242.
14. Chang CJ, Wu CH, Chang CS, Yao WJ, Yang YC, Wu JS, Lu FH (2003) Low body mass index but high percent body fat in Taiwanese subjects: implications of obesity cutoffs. Int J Obes Relat Metab Disord 27:253-259.
15. Deurenberg P (2001) Universal cut-off BMI points for obesity are not appropriate. Br J Nutr 85:135-136.
16. Deurenberg-Yap M, Chew SK, Deurenberg P (2002) Elevated body fat percentage and cardiovascular risks at low body mass index levels among Singaporean Chinese, Malays and Indians. Obes Rev 3:209-215.
17. He M, Tan KC, Li ET, Kung AW (2001) Body fat determination by dual energy X-ray absorptiometry and its relation to body mass index and waist circumference in Hong Kong Chinese. Int J Obes Relat Metab Disord 25:748-752.
18. Romero-Corral A, Somers VK, Sierra-Johnson J, Thomas RJ, Collazo-Clavell ML, Korinek J, Allison TG, Batsis JA, Sert-Kuniyoshi FH, Lopez-Jimenez F (2008) Accuracy of body mass index in diagnosing obesity in the adult general population. Int J Obes (Lond) 32:959-966.
19. Nguyen TV (2006) Phân tích sốliệu và tạo biểu đồbằng R. Nhà xuất bản Khoa học Kỹthuật TPHCM.
20. R, Development, Core, Team (2008) R: A Language and Environment for Statistical Computing. URL:http://wwwR-projectorg Vienna, Austria: .
21. Bozkirli E, Ertorer ME, Bakiner O, Tutuncu NB, Demirag NG (2007) The validity of the World Health Organisation’s obesity body mass index criteria in a Turkish population: a hospital-based study. Asia Pac J Clin Nutr 16:443-447.
22. De Lorenzo A, Deurenberg P, Pietrantuono M, Di Daniele N, Cervelli V, Andreoli A (2003) How fat is obese? Acta Diabetol 40 Suppl 1:S254-257.
23. Goh VH, Tain CF, Tong TY, Mok HP, Wong MT (2004) Are BMI and other anthropometric measures appropriate as indices for obesity? A study in an Asian population. J Lipid Res 45:1892-1898.
24. Yajnik CS, Yudkin JS (2004) The Y-Y paradox. Lancet 363:163.
25. Zhou BF (2002) Predictive values of body mass index and waist circumference for risk factors of certain related diseases in Chinese adults–study on optimal cut-off points of body mass index and waist circumference in Chinese adults. Biomed Environ Sci 15:83-96.
26. Lee K, Lee S, Kim SY, Kim SJ, Kim YJ (2007) Percent body fat cutoff values for classifying overweight and obesity recommended by the International Obesity Task Force (IOTF) in Korean children. Asia Pac J Clin Nutr 16:649-655.
27. Walls HL, Peeters A, Son PT, Quang NN, Hoai NT, Loi do D, Viet NL, Khai PG, Reid CM (2009) Prevalence of underweight, overweight and obesity in urban Hanoi, Vietnam. Asia Pac J Clin Nutr 18:234-239.
28. Cuong TQ, Dibley MJ, Bowe S, Hanh TT, Loan TT (2007) Obesity in adults: an emerging problem in urban areas of Ho Chi Minh City, Vietnam. Eur J Clin Nutr 61:673-681.
29. Baskin ML, Ard J, Franklin F, Allison DB (2005) Prevalence of obesity in the United States. Obes Rev 6:5-7.

Download pdf

 Thiếu vitamin D 

Một phụ nữ 61 tuổi lo lắng nồng độ vitamin D thấp được phát hiện trong lúc đánh giá tình trạng xương của bà ta. Bà mãn kinh lúc 54 tuổi, không có bệnh sử té ngã, không có tiền sử gia đình gãy xương háng, không dùng thuốc hay chất bổ sung. Chiều cao 157,5 cm và cân nặng 59,1 kg. Khám thực thể không có gì đặc biệt, xét nghiệm cận lâm sàng bình thường. Chỉ số T đo mật độ chất khoáng của xương hông là -1,5, và nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh là 21 ng/ml (53 nmol/lít). Bạn khuyên gì?.

VẤN ĐỀ LÂM SÀNG
Thiếu vitamin D rõ rệt (nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh thấp hơn 10 ng/ml (25 nmol/lít) xác định tình trạng yếu cơ, đau xương và gãy xương do giòn xương, thiếu vitamin D khi nồng độ 25-hydroxyvitamin D từ 10 đến 30 ng/ml (25 đến 75 nmol/lit), không có triệu chứng lâm sàng rõ ràng, gần đây là nỗi lo lắng cho cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân (BN). Sư quan tâm ngày càng tăng đối với “hội chứng” mới này và những biến chứng tiềm năng dẫn đến gia tăng việc xét nghiệm chất chuyển hóa 25-hydroxyvitamin D, một số đo lâm sàng tốt nhất của dự trữ sinh tố D. Số xét nghiệm 25-hydroxyvitamin D do một phòng thí nghiệm tham chiếu lớn cho thấy đã tăng 50% trong quí tư năm 2009 so với cùng quí năm 2008 và dự kiến có thể tăng lên hàng  triệu xét nghiệm trong năm nay.
Ý nghĩa của nồng độ vitamin D thấp hơn chuẩn mực bình thường nhưng không giảm đáng kể và giá trị của việc bổ sung chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Vitamin D quan trọng cho sự khoáng hóa xương và nhiều nghiên cứu quan sát đã thấy sự liên quan giữa nồng độ thấp 25-hydroxyvitamin D với gãy xương. Do đó, không có gì lạ khi phần lớn những nghiên cứu quan sát và nghiên cứu ngẫu nhiên, đối chứng giả dược về thiếu vitamin D đều tập trung vào những kết cục sức khỏe của xương. Trong nhiều năm qua, sự chú ý quay sang những ảnh hưởng ngoài xương của thiếu vitamin D, đặc biệt là sự liên quan với bệnh tim mạch, tiểu đường, ung thư, và rối loạn miễn dịch. Bài này tóm tắt những hiểu biết hiện tại và những điều chưa khẳng định về thiếu vitamin D và tác dụng bổ sung vitamin D trên kết cục sức khỏe.

CHIẾN LƯỢC VÀ CHỨNG CỚ

ĐỊnh nghĩa thiếu vitamin D

Xếp nồng độ 25-hydroxyvitamin D trong huyết thanh vào  mức “thiếu” (tức là 10 đến 30 ng/ml) là một việc đầy thách thức vì nhiều lý do. Thứ nhất, phần lớn các phòng thí nghiệm tham chiếu đã nâng giới hạn dưới của trị số bình thường lên 30 ng/ml. Thứ hai, mặc dù có nhiều cách đo hydroxyvitamin D (xét nghiệm miễn dịch phóng xạ, xét nghiệm liên kết enzym và sắc ký lỏng với phổ trắc khối), độ đúng và độ chính xác của xét nghiệm, đặc biệt ở những phóng thí nghiệm không tham chiếu, vẫn còn có vấn đề. Thứ ba, nồng độ 25-hydroxyvitamin D thay đổi theo mùa, sự tiếp xúc với ánh nắng, và chế độ ăn. Ví dụ ở các vĩ độ bắc, nồng độ giảm 20% từ cuối hè đến giữa mùa đông, trái lại 30 phút để toàn thân tiếp xúc với ánh nắng trong mùa hè tạo nhanh vitamin D. Tiếp xúc đều đặn với ánh sáng mặt trời (tùy theo cường độ của ánh sáng) có thể gia tăng nhanh chóng nồng độ 25 hydroxyvitamin D.
Điều gì tạo nên nồng độ huyết thanh 25-hydroxyvitamin D? Vitamin D được tạo ra từ sự chuyển đổi không do enzym của provitamin D thành previtamin D (tiền vitamin D) trong da khi tiếp xúc ánh sáng mặt trời phát bức xạ cực tím trong dải bước sóng hẹp từ 290 đến 315 nm (Hình 1). Vitamin D cũng có trong thức ăn (từ 100 đến 200 đơn vị/ngày). Ở gan, vitamin D được biến đồi thành 25-hydroxyvitamin D, dang tan trong nước một phần với thời gian bán hủy ngắn hơn vitamin D, gắn vào protein chuyên chở vitamin D. Khoảng 40 đến 50% 25-hydroxyvitamin D trong máu là do sự biến đổi ở da. Dạng có hoạt tính của vitamin D là 1,25-dihydroxyvitamin D, được tạo ra chủ yếu từ thận, tuần hoàn trong máu với nồng độ thấp hơn 25 hydroxyvitamin D nhưng có ái lực với thụ thể vitamin D lớn hơn và có hoạt lực sinh học mạnh hơn. Nồng độ thấp của 1,25-dihydroxyvitamin D không phản ảnh nồng độ thấp của 25-hydroxy-vitamin D mà là do những nguyên nhân khác,  thường gặp nhất là suy thận hay ít gặp hơn là nhuyễn xương do ung thư.
Nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh là chỉ điểm tốt nhất của tình trạng tổng quát của vitamin D bởi vì số đo này phản ảnh tổng vitamin D từ nguồn thức ăn, tiếp xúc ánh sáng mặt trời, cũng như sự biến đổi vitamin D từ dự trữ mỡ trong gan. Theo Điều tra Đánh Giá Sức khỏe và Dinh dưỡng  Quốc Gia Hoa Kỳ (NHANES), lượng vitamin D ăn vào trung bình (bao gồm chất bổ sung) có thể thấp đến 200 đơn vị/ngày (với những khác biệt theo tuổi). Sự tổng hợp vitamin D từ da khá khác nhau, phụ thuộc vào sắc tố, vĩ độ, mùa tiết, áo quần, tuổi, việc sử dụng kem chống nắng và tình trạng thời tiết địa phương. Nồng độ 25-hydroxyvitamin D ở người da đen thấp hơn người da trắng do sắc tố cao ở da đen. Ở người da trắng, nồng độ của 25 hydroxy-vitamin D có thể thay đổi tùy theo các yếu tố môi trường, hormon, di truyền, và dinh dưỡng. Chỉ số thân khối (BMI) tỷ lệ nghịch với nồng độ 25-hydroxyvitamin D và BN mập thường có nồng độ từ 10 đến 20 ng/ml (25 đến 50 nmol/lít); khác biệt này một phần do ít luyện tập thể lực, ít tiếp xúc ánh sáng ngoài trời của người mập hơn là người chắc thịt. Nhiều tình trạng gây nồng độ 25-hydroxy-vitamin D huyết thanh thấp (tức dưới 10 ng/ml), như chế độ ăn ít vitamin D đi đôi với ít tiếp xúc ánh sáng mặt trời, hấp thu kém do bệnh đường ruột viêm nhiễm, bệnh sprue (ruột dị ứng với gluten), phẫu thuật dạ dày, bệnh đường mật, hay vi khuẩn đường ruột tăng trưởng quá mức; dùng các thuốc chống động kinh (như phenobarbital hay phenytoin); và dùng glucocorticoid lâu dài.
Định nghĩa nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh thấp hay thiếu tùy thuộc vào nồng độ được định nghĩa bình thường. Trước kia, theo Tổ chức Y tế Thế giới, nồng độ thấp hơn 10 ng/ml xem như thiếu và nồng độ thấp hơn 20 ng/ml xem như suy giảm. Tuy nhiên, với những thay đổi gần đây trong giới hạn tham chiếu cận lâm sàng, bây giờ một nồng độ bình thường thường được định nghĩa là nồng độ huyết thanh từ 30 đến 76 ng/ml (75 đến 190 nanomol/lít). Khi giới hạn này được dùng, tỉ lệ lưu hành ước đoán của suy giảm vitamin D cao từ 50 đến 80% trong dân chúng. Theo NHANES trong năm 2005 và 2006, nồng độ 25-hydroxyvitamin D trung bình ở nhiều nhóm tuổi là 24 ng/ml (60 nmol/l), được xem là giảm theo một số tiêu chuẩn.
Có hai lý do để thiết lập giới hạn dưới của nồng độ của 25-hydroxyvitamin D bình thường là 30 ng/ml: thứ nhất, được nhấn mạnh trong những nghiên cứu được công bố trong mấy năm qua, gợi ý rằng nồng độ hormon cận giáp (PTH) tăng khi nồng độ 25-hydroxyvitamin D giảm dưới 30 ng/ml; thứ hai, những nghiên cứu trước đó gợi ý rằng hấp thu calci tối ưu khi nồng độ 25-hydroxyvitamin D là 30 ng/ml. Tuy nhiên hai lý do này bây giờ cũng bị đặt câu hỏi. Dữ liệu cho thấy mối tương quan giữa hormon cận giáp và 25-hydroxyvitamin D không thể biểu diễn bằng một đường cong, và có những biến thiên đáng kể của nồng độ hormon cận giáp khi nồng độ 25-hydroxyviatmin D ở trong khoảng từ 20 đến 30 ng/ml. Không có mức ngưỡng tuyệt đối của nồng độ 25-hydroxyvitamin huyết thanh mà ở đó hormon cận giáp bắt đầu tăng. Hơn nữa, mặc dù thông tin từ phân tích đồng vị kép (dual isotope) là phương pháp chính xác nhất để đo hấp thu calci. Có quá ít nghiên cứu chứng minh một ngưỡng tuyệt đối của  nồng độ 25-hydroxyvitamin D mà ở đó sự hấp thu calci không tăng. Thông thường, hấp thu calci đỉnh xảy ra ở nồng độ trong khoảng từ 20 đến 30 ng/ml.

Hình 1. Tổng hợp và chuyển hóa của vitamin D.
Vitamin D khởi đầu được tạo ra từ da do sự biến đổi không do enzym từ provitamin D3 sang tiền vitamin D3. Vitamin D ăn vào thường tương đối hạn chế vì có ít trong thực phẩm ngoại trừ vài loại cá chứa lượng lớn; nên thường phải dùng chất bổ sung. Vitamin D được dự trữ trong mô mỡ hoặc được biến đồi thành 25-hydroxyvitamin D3 (25[OH]D3) trong gan do enzym 25-hydroxylase, một dạng tuần hoàn trong máu ở nồng độ cao nhất và phản ảnh sự tiếp xúc ánh nắng hay thu nạp từ thức ăn. Nó được biến đổi thành một chất chuyển hóa có hoạt tính, 1,25 dihydroxyvitamin D (1,25 [OH]2D) hay calcitrol trong thận, mặc dù những mô khác cũng có 1α-hydroxylase hoạt động. Tổng hợp calcitrol gia tăng (+) khi nồng độ hormon cận giáp (PTH) tăng để đáp ứng với nồng độ calci thấp. Nồng độ phosphat huyết thanh thấp cũng làm tăng sản xuất calcitrol. Sự tổng hợp calcitrol bị ức chế (-) bởi sự sản sinh yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 23 ( FGF 23), vốn được tiết ra từ tế bào xương trong chất nền xương. Calcitrol ức chế hoạt động của 1α-hydroxylase (CYP27B1) và kích thích hoạt động của 24-hydroxylase (CYP24R1), một loại enzym thúc đẩy sản xuất 24,25(OH)2D3, một sản phẩm vitamin D không có hoạt tính sinh học. (Trong các từ CYP2R1, CYP27B1, và CYP24R1, CYP có nghĩa cytochrome P).

Vitamin D và sức khoẻ xương

Mặc dù gần đây sự chú ý tập trung vào tác dụng ngoài xương của vitamin D, nhưng vitamin D vẫn hết sức quan trọng cho sự khoáng hóa xương. Vì vậy, không ngạc nhiên gì khi nhiều nghiên cứu vitamin D đã đánh giá các kết cục trên sức khỏe xương.
Nhiều nghiên cứu quan sát sự kết hợp  giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D và sức khỏe xương cho kết quả trái ngược nhau. Một báo cáo từ Ottawa về 15 nghiên cứu (ba nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu và 12 nghiên cứu bệnh-chứng) kết luận rằng sự kết hợp giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh và gãy xương, té ngã và hiệu năng vận động (như dáng đi, độ ổn định, và hoạt động) ở phụ nữ sau mãn kinh và nam giới lớn tuổi tỏ ra thiếu nhất quán. Một báo cáo gần đây hơn của Cơ quan Nghiên cứu và Chất lượng Chăm sóc Y tế (AHRQ) và Trung tâm Y khoa Tufts cũng phân tích những nghiên cứu quan sát ấy, kết luận rằng có chứng cớ thẳng thắn và hợp lý về sự kết hợp giữa nồng độ thấp của 25-hydroxyvitamin D huyết thanh và tăng nguy cơ té ngã ở người cao tuổi sống trong viện dưỡng lão.
Những nghiên cứu ngẫu nhiên, đối chứng về bổ sung vitamin D đã đề cập đến ảnh hưởng trên kết cục xương, nhưng phần lớn những thử nghiệm này sử dụng bổ sung vitamin D và calci nên khó có thể phân biệt tác dụng đặc hiệu của vitamin D. Kết quả của một tổng phân tích năm 2007 gồm 29 nghiên cứu bổ sung với calci lẫn vitamin D và calci đơn độc gợi ý rằng bổ sung hằng ngày 1200 mg calci và ít nhất 800 đơn vị vitamin D sẽ giảm tỷ lệ gãy xương và làm gia tăng vừa phải mật độ khoáng xương, nhưng mối tương quan giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh với kết cục xương không được đánh giá. Một tổng phân tích Cochrane 2009 gồm 10 thử nghiệm đánh giá tác dụng của bổ sung vitamin D đơn độc và 8 nghiên cứu đánh giá tác dụng của vitamin D cộng với calci cho thấy sự tương quan không ý nghĩa giữa bổ sung vitamin D đơn độc và giảm nguy cơ gãy xương. Tuy nhiên, một nghiên cứu đã khẳng định kết luận của tổng phân tích 2007 cho rằng calci cộng với vitamin D có tác dụng ở mức không đáng kể trong việc làm giảm nguy cơ gãy xương ở người già khi so sánh với không bổ sung (tỉ số odd 0,89; khoảng tin cậy 95%: 0,80 đến 0,99).
Mặc dù dữ liệu quan sát gợi ra mối liên quan nghịch giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh và nguy cơ té ngã ở những BN già trong viện dưỡng lão, nhưng chứng cớ không nhất quán, với nhiều nghiên cứu cho thấy lợi ích của việc bổ sung vitamin D và nhiều nghiên cứu khác cho thấy không có ích trên nguy cơ gãy xương hay té ngã trong nhiều quần thể khác nhau. Tương tự, một nghiên cứu ngẫu nhiên của tổ chức WHI (Women’ Health Initiative) cho thấy gãy xương hông giảm không có ý nghĩa ở phụ nữ nhận tổng cộng 700 đơn vị vitamin D và hơn 2000 mg calci mỗi ngày. Tuy nhiên, mức thu nạp nền cao của calci (trung bình 1100 đến 1200 mg) và vitamin D (gần 300 đơn vị mỗi ngày) ở nhóm giả dược đã hạn chế khả năng của các nhà nghiên cứu phát hiện tác dụng của thuốc bổ sung. Phân tích các phân nhóm phụ nữ trên 60 tuổi và phụ nữ gắn bó với chế độ bổ sung cho thấy giảm có ý nghĩa gãy xương hông khi có bổ sung, nhưng cần thận trọng khi lý giải những kết quả này. Những nghiên cứu ngẫu nhiên về bổ sung vitamin D2 hay D3 (với liều hằng ngày 400 đến 822 đơn vị) được công bố sau phân tích AHRQ-Tuft cũng không cho thấy tác dụng có ý nghĩa khi bổ sung vitamin D trên nguy cơ gãy xương và té ngã của người cao tuổi. Tuy vậy, một trong những nghiên cứu đó cho thấy bổ sung vitamin D ở liều 400 mg/ngày cải thiện được dáng đi và sự chao đảo của cơ thể.
Nhiều nghiên cứu quan sát lớn đã để cập đến vấn đề liệu có một nồng độ ngưỡng của 25-hydroxy-vitamin D mà dưới mức đó sẽ có nhiều khả năng xảy ra những kết cục bất lợi trên xương. Trong một nghiên cứu trên nam giới lớn tuổi, những nồng độ dưới 16 ng/ml (40 nmol/lít) kết hợp với nguy cơ gãy xương cao hơn, trong khi ở một nghiên cứu khác, nam giới có nồng độ dưới 20 ng/ml có tỷ lệ mất xương ở xương đùi cao hơn so với nam giới có nồng độ cao. Trong nghiên cứu dọc Osteoporotic Fracture in Men (MrOs), đàn ông lớn tuổi có nồng độ 25-hydroxyvitamin D dưới 20 ng/ml có nguy cơ cao gãy xương hông hơn. Trong một nghiên cứu tiền cứu ở phụ nữ lớn tuổi, nồng độ 25-hydroxy-vitamin D từ 24 đến 26 ng/ml (60 đến 65 nmol/lít) kết hợp với nguy cơ thấp nhất của gãy xương hông; không thấy giảm thêm nguy cơ khi nồng độ cao hơn mức này. Tuy nhiên trong một nghiên cứu trên phụ nữ lớn tuổi ở Tân Tây Lan, nồng độ 25-hydroxyvitamin D dưới 20 ng/ml không kết hợp với tăng nguy cơ gãy xương trong 5 năm theo dõi.

Vitamin D và những tác dụng sức khoẻ khác

Nghiên cứu quan sát trong những đoàn hệ lớn cho thấy những sự kết hợp có ý nghĩa giữa nồng độ thấp của 25-hydroxyvitamin D (tức là dưới 20 ng/ml) và tăng nguy cơ rối loạn chuyển hóa, ung thư và miễn dịch như tiểu đường týp 1 và xơ cứng rải rác. Hai tình trạng thường kết hợp nhất với nồng độ vitamin D thấp là xơ vữa mạch máu và tiểu đường. Ví dụ, nguy cơ tiểu đường týp 2 tăng có ý nghĩa ở những BN giảm nồng độ vitamin D (dưới 30 ng/ml) ngay cả sau khi hiệu chỉnh với BMI và tỉ lệ phần trăm mỡ cơ thể. Tương tự, một nghiên cứu tiền cứu khác cho thấy nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh thấp dưới 20 ng/ml kết hợp với tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Tuy nhiên, không có đủ dữ liệu từ những nghiên cứu ngẫu nhiên đối chứng lớn, để đánh giá liệu bổ sung vitamin D có làm giảm nguy cơ những bệnh mạn tính khác ngoài loãng xương hay không.

NHỮNG LÃNH VỰC KHÔNG CHẮN CHẮN
Động học của sự dự trữ vitamin D và tái nhập vào hệ thống tuần hoàn vẫn chưa hiểu rõ, đặc biệt ở người béo phì. Liều tối ưu của vitamin D vẫn chưa được biết chắc. Thường mỗi 100 đơn vị vitamin D ăn vào, làm tăng khoảng 1 ng/ml (3 nmol/lít) nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh, nồng độ 25-hydroxyvitamin D càng thấp thì mức tăng càng cao khi bổ sung vitamin D. Phần lớn các thử nghiệm đánh giá sự kết hợp giữa 25-hydroxyvitamin D và nguy cơ gãy xương và té ngã đã dùng liều vitamin D từ 400 đến 1000 đơn vị/ngày. Hiếm thấy dữ liệu về tác dụng của bổ sung lâu dài với liều cao hơn 1000 đơn vị/ngày. Trong một thử nghiệm đối chứng giả dược, mới được công bố gần đây, trên BN cao tuổi không sống trong viện, uống 500.000 đơn vị vitamin D một lần/năm trong ba năm cho thấy tăng tỷ lệ té ngã và gãy xương khi so với người dùng giả dược, đặc biệt trong ba tháng đầu sau khi dùng. Kết quả này gợi ý rằng những liều cao ngắt quảng, khi so sánh liều hằng ngày, có thể được chuyển hóa và sử dụng một cách khác hơn. Sau cùng, thiếu dữ liệu từ những thử nghiệm lớn, đối chứng, ngẫu nhiên, được thiết kế để xác định xem bổ sung vitamin D có làm giảm nguy cơ những bệnh quan trọng khác như ung thư đại tràng, mà  dữ liệu quan sát cho thấy giảm nguy cơ khi có bổ sung. Thử nghiệm đang tiến hành Vitamin D và Omega-3 (VITAL), một nghiên cứu 5 năm, ngẫu nhiên, đối chứng giả dược, trên 20.000 người Mỹ, cả nam lẫn nữ, khảo sát việc bổ sung vitamin D (2000 đơn vị/ngày) có hoặc không có bổ sung acid béo n-3, để dự phòng [C1] cấp một đối với ung thư và bệnh tim mạch.
Độc tính do bổ sung vitamin D hiếm gặp và chủ yếu là tăng calci-máu cấp, thường do dùng liều vượt quá 10.000 đơn vị/ngày; kết hợp với nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh trên 150 ng/ml (375 nmol/lít). Gần đây, Viện Y học Hoa Kỳ (IOM) đã đề ra giới hạn trên có thể dung nạp được của liều vitamin D là 4000 đơn vị/ngày. Ảnh hưởng lâu dài của liều trên 4000 đơn vị không được rõ và không thể loại trừ khả năng nguy cơ. Những nghiên cứu quan sát gần đây cho thấy sự kết hợp giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh trên 60 ng/ml (150 nmol/lit) và tăng nguy cơ ung thư tụy, hóa vôi mạch máu và tử vong do nguyên nhân bất kỳ, nhưng do bản chất là nghiên cứu quan sát, nên khó lòng đánh giá nguyên nhân và hậu quả. Cần có thêm các nghiên cứu dọc và nghiên cứu đối chứng
Nhiều nghiên cứu gợi ý rằng bổ sung vitamin D có thể có hiệu quả nhất trong việc giảm gãy xương hay té ngã ở người già ở viện, mà nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh thường thấp dưới 20 ng/ml. Tuy nhiên liều tối ưu  vẫn chưa được biết. Cần có một nghiên cứu lớn, ngẫu nhiên, dài hạn để khảo sát tác dụng của những liều vitamin D khác nhau trên các số đo hiệu năng thể chất và xuất độ té ngã và gãy xương tcủa người già ở viện.

HƯỚNG DẪN CỦA CÁC HỘI CHUYÊN KHOA
Ở một hội nghị quốc tế về vitamin D tổ chức năm 2007, có sự nhất trí rằng phần đông dân số thế giới không có đủ vitamin D để duy trì một khối lượng xương khỏe và giảm thiểu nguy cơ gãy xương. Những thành viên hội nghị cũng đồng ý rắng giảm vitamin D làm giảm sức cơ và tăng nguy cơ té ngã. Khuyến cáo từ hội nghị này, dựa vào những dữ liệu quan sát khả dụng, cho rằng nồng độ tối thiểu thỏa đáng của 25-hydroxyvitamin D là 20 ng/ml. Ba năm sau, Hội Loãng xương Canada có một báo cáo nói rằng nồng độ 25 hydroxyvitamin D ít nhất phải là 30 ng/ml và định nghĩa thiếu vitamin D khi nồng độ từ 10 đến 29 ng/ml. Năm 2010, Hội Loãng xương Quốc tế đưa ra tuyên bố về tình trạng vitamin D, cũng dựa vào những dữ liệu quan sát, khuyến cáo nồng độ đích của 25-hydroxyvitamin D trong huyết thanh là 30 ng/ml ở tất cả người lớn tuổi và nói rằng mức thu nạp vitamin D hàng ngày lên đến 2000 đơn vị/ngày có thể cần thiết để đạt nồng độ khuyến cáo ở một số người. Trái lại, báo cáo của IOM, dựa trên chứng cớ nghiên cứu quan sát và những thử nghiệm ngẫu nhiên gần đây, gợi ý nồng độ huyết thanh 20 ng/ml của 25-hydroxy-vitamin D sẽ bảo vệ 97,5% dân chúng chống các kết cục bất lợi trên xương như gãy xương và té ngã.

KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KHUYẾN CÁO     
Người phụ nữ mô tả trên là một phụ nữ sau mãn kinh khỏe mạnh với mật độ khoáng xương hơi thấp và nồng độ 25-hydroxyvitamin D là 21 ng/ml. Mặc dù phòng xét nghiệm đã làm xét nghiệm này, và những phòng xét nghiệm khác nữa, cho mức này là giảm, nhưng chắc chắn bà ta không bị thiếu vitamin D. Theo Công cụ Đánh Giá Nguy cơ Gãy xương (Fracture Risk Assessement Tool (FRAX)) của Tổ chức Y tế Thế giới, xác suất bà ta sẽ bị gãy xương hông trong 10 năm tới là thấp hơn 1%. Hơn nữa, bà không có nguy cơ cao té ngã và ít khả năng có chứng nhuyễn xương. Do đó, đối với những BN như bà, sẽ khuyến cáo một chương trình luyện tập thể lực và dùng calci 1200 mg/ngày. Vẫn không biết chắc liệu bổ sung vitamin D có thích hợp cho bà ta hay không, và nếu có, thì nên dùng liều nào, mặc dù hướng dẫn gần đây của IOM khuyên dùng 600 đơn vị/ngày cho phụ nữ sau mãn kinh không có nguy cơ cao loãng xương và té ngã và liều 800 đơn vị/ngày cho người có nguy cơ rất cao loãng xương hoặc người già trên 70 tuổi. Cũng nên giải thích thêm rằng tuy gần đây các phương tiện truyền thông nói nhiều đến vai trò tiềm năng của vitamin D trong giảm nguy cơ của nhiều bệnh mạn tính khác nhau, giả thiết này cần được kiểm định bằng những thử nghiệm ngẫu nhiên, đối chứng lớn, và hiện tại không nên khuyên dùng vitamin D cho mục đích giảm nguy cơ bệnh tim và ung thư.

BS Phan Công Tân, dịch theo Clifford J. Rosen, “Vitamin D Insufficiency” trong tạp chí N Engl J Med 2011; 364:248-54.
Hiệu đính: BS Nguyễn Triển

Download pdf

Nhiễm trùng niệu ở phụ nữ có thai

Nguyễn Hoàng Đức
Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM

URINARY TRACT INFECTIONS IN PREGNANCY
Urinary tract infections frequently complicate pregnancy with their concomitant morbidities. Asymptomatic bacteriuria (ASB), if left unrecognized and untreated, frequently progresses to pyelonephritis, and is associated with preterm delivery and low birth weight infants. A possible association exists between ASB and cognitive delay. Pyelonephritis is a serious medical condition in pregnancy and poses a significant medical risk to maternal, and, therefore, fetal well-being. Patients should be treated immediately and failure of response should be evaluated promptly. Close observation is necessary to detect complications, such as septic shock and respiratory insufficiency. When afebrile for 48 hours, patients may be discharged home with increased surveillance for the duration of the pregnancy. The risk of recurrence may be minimized with suppression therapy, or alternatively, monthly urine cultures

Nhiễm trùng niệu (NTN) là bệnh thường gặp ở phụ nữ có thai với tỉ lệ mắc mới (incidence) khoảng 8%.(1,2) Trong số đó, 1–2% số bệnh nhân có triệu chứng NTN và 2 – 13% không biểu hiện triệu chứng NTN.(3) Những thay đổi sinh lý trong thai kỳ khiến phụ nữ mang thai dễ bị NTN. Do tác động chống co thắt của progesterone và sự chèn ép của tử cung lên bàng quang, khả năng tống thoát của bàng quang suy giảm làm tăng thể tích nước tiểu tồn lưu và tăng nguy cơ ngược dòng bàng quang–niệu quản. Ngoài ra, sự thay đổi độ lọc cầu thận trong quá trình mang thai làm tăng độ cô đặc glucose-niệu và tính chất kiềm của nước tiểu cũng tạo thuận lợi cho vi trùng phát triển.(4) Nếu không điều trị, NTN sẽ đưa đến những biến chứng viêm thận–bể thận, trẻ sinh thiếu cân, sinh non và đôi khi đưa đến thai chết lưu.(5) Theo McDermott, nguy cơ tương đối bị chậm phát triển và trì trệ tâm thần ở trẻ có mẹ nhiễm trùng niệu trong thai kỳ cao hơn 1,31 lần so với nhóm trẻ mẹ không có nhiễm trùng niệu trong thai kỳ (khoảng tin cậy 95%: 1,12-1,54). Nếu phụ nữ có thai mắc bệnh nhưng không điều trị nhiễm trùng niệu, trẻ sinh ra có nguy cơ tương đối chậm phát triển và trì trệ tâm thần là 1,22 lần cao hơn (khoảng tin cậy 95%: 1,02-1,46) so với những trẻ mà mẹ được điều trị nhiễm trùng niệu.(6) Do đó việc phát hiện sớm và điều trị tích cực NTN ở phụ nữ có thai rất quan trọng.

NTN ở phụ nữ có thai được chia làm 3 loại: khuẩn niệu không triệu chứng, viêm bàng quang, và viêm thận–bể thận cấp.(7)

Khuẩn niệu không triệu chứng
Tiêu chuẩn kinh điển chẩn đoán “khuẩn niệu không triệu chứng” gồm: (4,5,7)
· Bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng của nhiễm trùng niệu
· Cấy nước tiểu có trên 105 khúm vi trùng/1 mL nước tiểu trong hai lần cấy liên tiếp
· Chỉ hiện diện duy nhất một chủng vi khuẩn gây bệnh phổ biến của đường tiết niệu như Escherichia coli (chiếm 80–90% trường hợp), Klebsiella pneumoniae, Proteus mirabilis, Pseudomonas aeruginosa, Streptococcus agalacticae, Staphylococcus saphrophyticus
Tuy nhiên một số nghiên cứu gần đây cảnh báo với số lượng từ 102–103 khúm vi trùng/mL nước tiểu đã đủ khả năng gây viêm thận–bể thận cấp ở phụ nữ có thai.(8-10) Tỉ lệ mắc mới “khuẩn niệu không triệu chứng” ở phụ nữ có thai tương đương phụ nữ không có thai, từ 2–14%.(10,11) Các yếu tố thúc đẩy khuẩn niệu không triệu chứng gồm: tình trạng kinh tế-xã hội kém, lớn tuổi, sinh nhiều lần, hành vi tính dục nguy cơ cao hoặc thai phụ có tiền sử nhiễm trùng niệu ở tuổi thiếu nhi. Tỉ lệ hiện mắc (prevalence) khuẩn niệu không triệu chứng tăng đáng kể ở những thai phụ có bệnh đái tháo đường, thiếu máu hồng cầu hình liềm, suy giảm miễn dịch, bất thường giải phẫu hệ tiết niệu và chấn thương tủy sống.(12)
Ở phụ nữ có thai, nếu không điều trị, 20–40% số trường hợp khuẩn niệu không triệu chứng sẽ diễn tiến đến viêm thận–bể thận cấp. Ở thuần tập phụ nữ không có thai, tỉ lệ này chỉ khoảng 1–2%. Nếu điều trị thích hợp, chỉ 3% số trường hợp khuẩn niệu không triệu chứng diễn tiến đến viêm thận–bể thận cấp.(13)
Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ đề nghị tầm soát khuẩn niệu không triệu chứng ở mọi phụ nữ có thai bằng cấy nước tiểu vào thời điểm từ tuần 12–16 của thai kỳ.(14,15) Nếu kết quả cấy nước tiểu dương tính thì đây là thời điểm thuận lợi nhất để điều trị và đảm bảo an toàn cho suốt thai kỳ còn lại.(13) Xét nghiệm nước tiểu với que nhúng (dipstick) có độ nhạy chẩn đoán nhiễm trùng niệu từ 50–92% và giá trị tiên đoán âm tính 99,2%.(16) Tuy nhiên để có chẩn đoán dương tính, xét nghiệm với que nhúng đòi hỏi số lượng khúm vi trùng trong nước tiểu phải từ 105/mL trở lên.(8) Do khuynh hướng hiện nay là cố gắng phát hiện tình trạng khuẩn niệu không triệu chứng khi số lượng khúm vi trùng còn thấp, nên xét nghiệm nước tiểu với que nhúng chưa thể thay thế việc cấy nước tiểu trong nỗ lực tầm soát tình trạng này ở phụ nữ có thai.(4)
Smaill và cộng sự qua một tổng phân tích đã chứng minh có thể dùng nhiều loại kháng sinh khác nhau điều trị khuẩn niệu không triệu chứng với hiệu quả tương đương nhau.(17)Điều trị với kháng sinh phổ rộng là chủ yếu vì chưa dự đoán được chủng vi khuẩn gây bệnh ở thời điểm bắt đầu điều trị. Các yếu tố phải lưu ý khi lựa chọn kháng sinh là khả năng kháng thuốc của vi khuẩn trong cộng đồng, dược động học của thuốc, tác dụng phụ, thời gian điều trị và giá thành điều trị.(18)
· Kháng sinh nhóm b-lactam: do những thay đổi dược động học trong thai kỳ nên nồng độ huyết tương của thuốc giảm đi 50%.(5) Ngoài ra khả năng kháng thuốc của chủng E. coli có thể đến 60%.(8) Trong nhóm này, cephalexin và penicillin là hai thuốc thường dùng trong thai kỳ nhất.
· Nitrofuratoin là kháng sinh lý tưởng và an toàn trong thai kỳ.(7) Do tỉ lệ kháng thuốc rất thấp nên đây là kháng sinh được dùng nhiều nhất điều trị nhiễm trùng niệu ở phụ nữ có thai.(19) Tuy nhiên nitrofurantoin có tác dụng kém với chủng Proteus và có nhiều tác dụng phụ lên hệ tiêu hóa.(7)
· Trimethoprim-sulfamethoxazole chống chỉ định dùng trong 3 tháng đầu thai kỳ do tác động ức chế chuyển hóa folat của thuốc có thể gây khuyết tật ống thần kinh của thai.
· Sulfonamide không được dùng trong 3 tháng cuối thai kỳ vì nguy cơ tổn thương não do vàng da sơ sinh và do những tác động lên chuyển hóa folat của thuốc.
· Fluoroquinolone có thể gây nguy cơ bệnh khớp ở trẻ sơ sinh nên chống chỉ định dùng trong thai kỳ.(5,10)
Thời gian điều trị kháng sinh ở phụ nữ có thai ít nhất 7 ngày.(4,5,12,20) Nếu sau 7 ngày vi trùng vẫn còn hiện diện trong nước tiểu, tiếp tục sử dụng một đợt 7–14 ngày kháng sinh cùng loại hoặc khác loại, tùy thuộc hướng dẫn của kháng sinh đồ. Hiện nay chưa đủ chứng cứ ủng hộ việc sử dụng kháng sinh chỉ kéo dài 3 ngày trong điều trị khuẩn niệu không triệu chứng ở phụ nữ có thai.(21)
Sau khi điều trị hết vi trùng trong nước tiểu, bệnh nhân vẫn cần cấy nước tiểu hàng tháng cho đến hết thai kỳ do khả năng tái phát lên đến 30%.(8,13,20,22,23) Nếu tái nhiễm với cùng một chủng vi khuẩn hoặc tái phát với chủng vi khuẩn mới, phải điều trị đầy đủ như lần nhiễm khuẩn trước, dựa trên kết quả kháng sinh đồ. Để tránh tái phát, có thể cân nhắc cho bệnh nhân sử dụng kháng sinh hàng ngày liều thấp (cephalexin 125–250mg; nitrofurantoin 50–100mg) liên tục đến sau sinh.(24) Tuy nhiên sử dụng cephalosporin kéo dài có thể gây nhiễm nấm Candida mạn tính ở âm đạo.(5)

Viêm bàng quang
Biểu hiện của viêm bàng quang cấp gồm tiểu gấp, tiểu nhiều lần, tiểu đau, tiểu mủ, tiểu máu và không kèm triệu chứng toàn thân. Cấy nước tiểu có trên 105 khúm vi khuẩn/mL.(7)Khác với khuẩn niệu không triệu chứng, tình trạng viêm bàng quang không làm tăng nguy cơ viêm thận–bể thận cấp ở phụ nữ có thai. Đa số các trường hợp viêm bàng quang xảy ra ở những thai phụ chưa hề có tình trạng khuẩn niệu trước đó nên việc tầm soát không làm giảm được tỉ lệ mắc mới ở phụ nữ có thai.(25) Yếu tố nguy cơ viêm bàng quang trong thai kỳ tương tự như với các bệnh nhân khuẩn niệu không triệu chứng. Ngoài ra còn một số yếu tố nguy cơ khác như tiền sử nhiễm Chlamydia trachomatis, sử dụng các thuốc gây nghiện.(26)
Do các chủng vi khuẩn gây viêm bàng quang giống như vi khuẩn gây khuẩn niệu không triệu chứng nên cách điều trị và theo dõi cũng tương tự.
Một số phụ nữ có triệu chứng viêm bàng quang cấp nhưng cấy nước tiểu không có vi khuẩn. Nếu bệnh nhân chưa hề dùng kháng sinh trước đó thì khả năng bị hội chứng niệu đạo rất cao. Nên cấy dịch niệu đạo tìm Chlamydia để chẩn đoán xác định và điều trị thích hợp.(27)

Viêm thận–bể thận cấp
Viêm thận–bể thận cấp xảy ra ở 1–2% số phụ nữ có thai.(28) Đây là loại nhiễm trùng niệu nguy hiểm trong thai kỳ vì có thể gây nhiều biến chứng cho thai phụ. Ngoài các yếu tố nguy cơ tương tự như trong viêm bàng quang cấp, viêm thận–bể thận dễ xảy ra ở những thai phụ có tiền sử viêm thận–bể thận, có bất thường giải phẫu hệ tiết niệu hoặc có sỏi niệu.(13) Gần 67% số trường hợp viêm thận–bể thận chỉ xảy ra trong 6 tháng cuối thai kỳ; 4% xảy ra trong 3 tháng đầu thai kỳ và 27% xảy ra sau sinh.(8) Do tư thế giải phẫu của tử cung khi mang thai có khuynh hướng nghiêng và chèn ép sang phải nên đa số viêm thận–bể thận ảnh hưởng đến thận phải nhiều hơn thận trái.(4)

 

Bảng 1 – Kháng sinh tĩnh mạch trong viêm thận–bể thận ở phụ nữ có thai (37,38)

Kháng sinh Liều Nguy cơ thai kỳ
Ampicillin + Gentamycin 2g mỗi 6 giờ Loại B
Gentamycin 2mg/kg khởi đầu, sau đó 1,7mg/kg chia 3 liều Loại C
Ampicillin-sulbactam 3g mỗi 6 giờ Loại B
Ceftriaxone 1g mỗi 24 giờ Loại B
Cefuroxime 0,75 – 1,5g mỗi 8 giờ Loại B
Cefazolin 1 – 2g mỗi 6 – 8 giờ Loại B
Mezlocillin 3g mỗi 6 giờ Loại B
Piperacillin 4g mỗi 8 giờ Loại B

Loại B: nghiên cứu trên động vật không ảnh hưởng thai nhưng chưa có nghiên cứu nhóm chứng ở người
Loại C: chưa có nghiên cứu nhóm chứng ở người, nghiên cứu ở động vật có ảnh hưởng đến thai

Bệnh nhân viêm thận–bể thận cấp có biểu hiện toàn thân rầm rộ: sốt, đau hông lưng, đau góc sườn– sống, lạnh run, nôn hoặc buồn nôn và đôi khi có thêm triệu chứng tiểu đau buốt nhiều lần.(13) Chẩn đoán xác định khi cấy nước tiểu có trên 104 khúm của một chủng vi khuẩn/mL nước tiểu giữa dòng.(29) Các chủng vi khuẩn gây bệnh thường gặp: E coli chiếm 70–80% trường hợp. Klebsiella pneumoniae và Proteus ít gặp hơn nhưng là những chủng vi khuẩn dễ gây tái phát bệnh.(30) Viêm thận–bể thận cấp là nguyên nhân hàng đầu gây sốc nhiễm trùng ở phụ nữ có thai.(31) Tỉ lệ sinh non ở thai phụ viêm thận–bể thận cấp từ 6–50% tùy thuộc tuổi thai ở thời điểm mắc bệnh và loại kháng sinh điều trị.(13)
Giá trị của cấy máu rất giới hạn vì đa số chủng vi khuẩn phân lập được từ máu không khác với chủng vi khuẩn phân lập từ nước tiểu.(32) Ngoài ra, MacMillan đã chứng minh 90% số trường hợp vi khuẩn gây bệnh nhạy với kháng sinh điều trị ban đầu; chỉ 2% trường hợp vi khuẩn phân lập từ máu và 3% trường hợp vi khuẩn phân lập từ nước tiểu không nhạy và cần đổi kháng sinh mới.(33) Theo tác giả chỉ nên cấy máu khi bệnh nhân sốc nhiễm trùng, sốt trên 39oC hoặc có dấu hiệu suy hô hấp.
Khoảng 25% số thai phụ viêm thận–bể thận cấp có tình trạng suy thận thoáng qua (giảm ít nhất 50% độ thanh thải creatinin).(34) Ngoài ra bệnh nhân có thể bị giảm kali-máu, thiếu máu, giảm tiểu cầu, tăng LDH do tán huyết.(7) Các rối loạn này sẽ tự ổn định sau khi điều trị nhiễm trùng. Viêm thận–bể thận còn kích hoạt đáp ứng viêm của cơ thể phóng thích interleukin-6 và interleukin-8 gây tổn thương sẹo xơ hóa nhu mô thận.(35) Theo Horcajada, sự phóng thích interleukin sẽ giảm đi nhanh chóng trong vòng 6 giờ và trở về bình thường 24 giờ sau khi dùng kháng sinh.(36) Do đó để hạn chế tổn thương nhu mô thận, sau khi có chẩn đoán lâm sàng, nên bắt đầu dùng ngay kháng sinh phổ rộng đường tĩnh mạch (bảng 1). Kháng sinh hàng đầu là cephalosporin thế hệ thứ nhất.(23) Khi sử dụng kháng sinh nhóm aminoglycoside ở những bệnh nhân suy thận, nên thận trọng theo dõi điều chỉnh nồng độ thuốc trong huyết tương.
Sau khi dùng kháng sinh thích hợp, 75% số bệnh nhân hết triệu chứng và hết lạnh run trong vòng 48 giờ; 95% hết sốt trong vòng 72 giờ.(13,23) Nếu sau 72 giờ dùng kháng sinh bệnh nhân chưa đáp ứng lâm sàng chứng tỏ vi khuẩn kháng thuốc, hoặc bệnh nhân có sỏi tiết niệu hoặc có dị dạng đường tiết niệu. Trong tình huống này, nên thêm vào hoặc thay thế kháng sinh nhóm aminoglycoside và thực hiện xét nghiệm hình ảnh đường tiết niệu. Ở phụ nữ có thai, độ nhạy chẩn đoán sỏi niệu của siêu âm rất kém.(39) Để phát hiện bất thường của đường tiết niệu, có thể chụp 1 phim duy nhất của hệ niệu 20–30 phút sau tiêm cản quang hoặc dùng MRI.(39)
Sau khi hết sốt 48 giờ, có thể ngưng kháng sinh tĩnh mạch và tiếp tục duy trì kháng sinh uống trong 2 tuần. Cấy nước tiểu mỗi tháng cho đến hết thai kỳ để phát hiện sớm những trường hợp tái phát.(13) Để giảm 95% khả năng tái phát, nên dùng kháng sinh liều thấp mỗi ngày (nitrofurantoin 10mg/ngày) liên tục đến 4–6 tuần sau sinh.(40)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Delzell JE, Jr., Lefevre ML. Urinary tract infections during pregnancy. Am Fam Physician 2000;61:713-21.
2.Orenstein R, Wong ES. Urinary tract infections in adults. Am Fam Physician 1999;59:1225-34, 37.
3.Dwyer PL, O’Reilly M. Recurrent urinary tract infection in the female. Curr Opin Obstet Gynecol 2002;14:537-43.
4.Connolly A, Thorp JM, Jr. Urinary tract infections in pregnancy. Urol Clin North Am 1999;26:779-87.
5.Christensen B. Which antibiotics are appropriate for treating bacteriuria in pregnancy? J Antimicrob Chemother 2000;46 Suppl 1:29-34; discussion 63-5.
6.McDermott S, Callaghan W, Szwejbka L, Mann H, Daguise V. Urinary tract infections during pregnancy and mental retardation and developmental delay. Obstet Gynecol 2000;96:113-9.
7.Mittal P, Wing DA. Urinary tract infections in pregnancy. Clin Perinatol 2005;32:749-64.
8.Le J, Briggs GG, McKeown A, Bustillo G. Urinary tract infections during pregnancy. Ann Pharmacother 2004;38:1692-701.
9.Lenke RR, VanDorsten JP, Schifrin BS. Pyelonephritis in pregnancy: a prospective randomized trial to prevent recurrent disease evaluating suppressive therapy with nitrofurantoin and close surveillance. Am J Obstet Gynecol 1983;146:953-7.
10. Krcmery S, Hromec J, Demesova D. Treatment of lower urinary tract infection in pregnancy. Int J Antimicrob Agents 2001;17:279-82.
11. Millar LK, Cox SM. Urinary tract infections complicating pregnancy. Infect Dis Clin North Am 1997;11:13-26.
12. Ovalle A, Levancini M. Urinary tract infections in pregnancy. Curr Opin Urol 2001;11:55-9.
13. Wing DA. Pyelonephritis. Clin Obstet Gynecol 1998;41:515-26.
14. Antimicrobial therapy for obstetric patients. In. Washington DC: American College of Obstetricians and Gynecologists: [ACOG Technical Bulletin No 17]; 1998.
15. Guide to cinical preventive services. Periodic updates. In: Rockville: Agency for Healthcare Quality and Research; 2004:[AHRQ Publication #04-IP003].
16. Rouse DJ, Andrews WW, Goldenberg RL, Owen J. Screening and treatment of asymptomatic bacteriuria of pregnancy to prevent pyelonephritis: a cost-effectiveness and cost-benefit analysis. Obstet Gynecol 1995;86:119-23.
17. Smaill F. Antibiotics for asymptomatic bacteriuria in pregnancy. Cochrane Database Syst Rev 2001:CD000490.
18. Nicolle LE. Urinary tract infection: traditional pharmacologic therapies. Am J Med 2002;113 Suppl 1A:35S-44S.
19. Huang ES, Stafford RS. National patterns in the treatment of urinary tract infections in women by ambulatory care physicians. Arch Intern Med 2002;162:41-7.
20. Gilstrap LC, 3rd, Ramin SM. Urinary tract infections during pregnancy. Obstet Gynecol Clin North Am 2001;28:581-91.
21. Villar J, Lydon-Rochelle MT, Gulmezoglu AM, Roganti A. Duration of treatment for asymptomatic bacteriuria during pregnancy. Cochrane Database Syst Rev 2000:CD000491.
22. Tan JS, File TM, Jr. Treatment of bacteriuria in pregnancy. Drugs 1992;44:972-80.
23. Wing DA. Pyelonephritis in pregnancy: treatment options for optimal outcomes. Drugs 2001;61:2087-96.
24. Pfau A, Sacks TG. Effective prophylaxis for recurrent urinary tract infections during pregnancy. Clin Infect Dis 1992;14:810-4.
25. Harris RE, Gilstrap LC, 3rd. Cystitis during pregnancy: a distinct clinical entity. Obstet Gynecol 1981;57:578-80.
26. Pastore LM, Savitz DA, Thorp JM, Jr., Koch GG, Hertz-Picciotto I, Irwin DE. Predictors of symptomatic urinary tract infection after 20 weeks’ gestation. J Perinatol 1999;19:488-93.
27. Renal and urinary tract disorders. In: Cunningham F, Gant N, Lenevo K, eds. 21st ed. New York: McGraw Hill; 2001:1251-72.
28. Gilstrap LC, 3rd, Cunningham FG, Whalley PJ. Acute pyelonephritis in pregnancy: an anterospective study. Obstet Gynecol 1981;57:409-13.
29. Warren JW, Abrutyn E, Hebel JR, Johnson JR, Schaeffer AJ, Stamm WE. Guidelines for antimicrobial treatment of uncomplicated acute bacterial cystitis and acute pyelonephritis in women. Infectious Diseases Society of America (IDSA). Clin Infect Dis 1999;29:745-58.
30. Dunlow S, Duff P. Prevalence of antibiotic-resistant uropathogens in obstetric patients with acute pyelonephritis. Obstet Gynecol 1990;76:241-4.
31. Mabie WC, Barton JR, Sibai B. Septic shock in pregnancy. Obstet Gynecol 1997;90:553-61.
32. Velasco M, Martinez JA, Moreno-Martinez A, et al. Blood cultures for women with uncomplicated acute pyelonephritis: are they necessary? Clin Infect Dis 2003;37:1127-30.
33. MacMillan MC, Grimes DA. The limited usefulness of urine and blood cultures in treating pyelonephritis in pregnancy. Obstet Gynecol 1991;78:745-8.
34. Whalley PJ, Cunningham FG, Martin FG. Transient renal dysfunction associated with acute pyelonephritis of pregnancy. Obstet Gynecol 1975;46:174-7.
35. Haraoka M, Senoh K, Ogata N, Furukawa M, Matsumoto T, Kumazawa J. Elevated interleukin-8 levels in the urine of children with renal scarring and/or vesicoureteral reflux. J Urol 1996;155:678-80.
36. Horcajada JP, Velasco M, Filella X, et al. Evaluation of inflammatory and renal-injury markers in women treated with antibiotics for acute pyelonephritis caused by Escherichia coli. Clin Diagn Lab Immunol 2004;11:142-6.
37. Vazquez JC, Villar J. Treatments for symptomatic urinary tract infections during pregnancy. Cochrane Database Syst Rev 2003:CD002256.
38. Wing DA, Hendershott CM, Debuque L, Millar LK. A randomized trial of three antibiotic regimens for the treatment of pyelonephritis in pregnancy. Obstet Gynecol 1998;92:249-53.
39. Butler EL, Cox SM, Eberts EG, Cunningham FG. Symptomatic nephrolithiasis complicating pregnancy. Obstet Gynecol 2000;96:753-6.
40. Sandberg T, Brorson JE. Efficacy of long-term antimicrobial prophylaxis after acute pyelonephritis in pregnancy. Scand J Infect Dis 1991;23:221-3.

Download pdf