Author Archives: admin

Sử dụng statin ở bệnh nhân có bệnh thận mạn

Nguyễn Thy Khuê*

Rối loạn chuyển hóa lipid thường gặp nhưng không xảy ra ở tất cả bệnh nhân bị bệnh thận mạn (BTM). Các yếu tố quyết định rối loạn chuyển hóa lipid ở bệnh nhân BTM bao gồm mức lọc cầu thận, có bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), tiểu đạm nặng, dùng thuốc ức chế miễn dịch, các kiểu điều trị thay thế thận (lọc máu, lọc màng bụng hay ghép thận), các bệnh đi cùng, tình trạng dinh dưỡng.
Đối với dân số chung, LDL là yếu tố nguy cơ độc lập của xơ vữa động mạch và thường được xem là mục tiêu để đánh giá rối loạn chuyển hóa lipid và điều trị, nhưng ở bệnh nhân có bệnh thận mạn, nồng độ LDL và cholesterol có thể thay đổi do tình trạng kém dinh dưỡng, mất năng lượng, hiện tượng viêm. Các nghiên cứu quan sát ở bệnh thận mạn lọc thận cho thấy nguy cơ tử vong chung và tử vong do tim mạch đều gia tăng ở nhóm có LDL cholesterol và cholesterol toàn phần thật thấp hay thật cao. Do bản chất bệnh thận mạn đã là một yếu tố nguy cơ tim mạch và các nghiên cứu điều trị rối loạn chuyển hóa lipid ở bệnh thận mạn nhắm vào giảm tử vong và nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch. Ủy ban về lipid của KDIGO (Kidney Disease | Improving Global Outcomes) không khuyến cáo theo dõi hiệu quả điều trị bằng LDL, nhưng có thể đo nồng độ LDL để đánh giá sự tuân trị của bệnh nhân.
Ngoài ra, trong đánh giá ban đầu bệnh nhân có bệnh thận mạn cũng cần đo bộ lipid (cholesterol, LDL-, HDL-cholesterol và triglyceride) chủ yếu là để xác định các rối loạn nặng như tăng cholesterol và/hoặc tăng triglyceride và loại trừ các nguyên nhân gây rối loạn lipid máu thứ phát có thể điều trị được. Bảng 1 trình bày các trường hợp rối loạn chuyển hóa lipid thứ phát. Nếu trong đánh giá ban đầu, nồng độ LDL > 4,9mmol/L (190mg/dL) và triglyceride > 11,3mmol/L (1000mg/dL) nên hỏi ý kiến chuyên gia để điều trị thích hợp.
Nghiên cứu điều trị lipid máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn không nhiều bằng ở dân số chung, nhất là ở bệnh nhân đái tháo đường. Các rối loạn lipid máu thường gặp ở bệnh nhân bệnh thận mạn khá giống bệnh nhân ĐTĐ với tăng triglyceride, giảm HDL, cholesterol và LDL có thể tăng hoặc không tùy giai đoạn của bệnh thận mạn.

 Download pdf

Lợi ích và nguy cơ của mổ lấy thai

Vũ Thị Nhung*

Những nghiên cứu gần dây trên thế giới liên quan đến mổ lấy thai (MLT) đã khẳng định một lần nữa sự đúng đắn của khuyến cáo về tỉ lệ MLT của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1985 là tốt nhất chỉ nên từ 5 – 10%. Khi tỉ lệ này vượt trên 15% thì tai biến sẽ xảy ra nhiều hơn cho mẹ và con.1 Theo thống kê của WHO: tỉ lệ MLT tăng từ 5-7% trong những năm 70 lên 25-30% vào năm 2003.1 Ở Hoa Kỳ hiện nay cứ 3 người sanh thì có 1 người phải mổ sanh. Mặc dù MLT có thể cứu được tính mạng của mẹ và thai nhi trong một số tình huống cấp cứu nhưng trong khi có sự gia tăng tỉ lệ MLT mà không có bằng cớ cho thấy có sự giảm bệnh suất và tử suất cho mẹ và trẻ sơ sinh. Trong khi đó lại có sự tăng tỉ lệ của những biến chứng liên quan đến MLT. Vì vậy, nhân viên y tế đặc biệt là bác sĩ phải hiểu rõ về những biến chứng gần và xa của MLT để phòng ngừa sự lạm dụng MLT nhất là trên sản phụ sanh con so.
Tình hình MLT trên thế giới và tại Việt Nam
Trong khoảng 3 thập kỷ gần đây, số trường hợp sanh mổ tiếp tục tăng cao trên thế giới:
–       Mỹ: tỉ lệ MLT là 21% năm 1996. Năm 2011 tỉ lệ này là 32,8%.2
–       Ở các nước Âu Châu: tỉ lệ MLT hiện nay là 30%.3
–       Năm 2001: Ở Anh tỉ lệ MLT là 21,4% – tăng gấp 5 lần so với năm 1971.3
–       Ở các nước Châu Mỹ La Tinh: khảo sát ở 8 quốc gia cho thấy tỉ lệ MLT >30% như ở Paraguay là 42%, Ecuador là 40%.3
–       Trung Quốc: Năm 1966 tỉ lệ MLT là 2,4% đến 2010 tỉ lệ này là 46%.3 Một nghiên cứu ở 9 quốc gia châu Á cho thấy MLT đã đạt đến mức độ “dịch” với tình trạng MLT không cần thiết tăng cao, trong đó, Trung Quốc có 25% các trường hợp MLT không vì lý do ykhoa.
–       Ở Brazil: Bệnh viện công có tỉ lệ MLT là 35% – BV tư là 70%.3
–       Ở Na Uy: tỉ lệ MLT là 1,8% (1967) tăng lên 16,4% (2006).4
Việt Nam: Tại BV Phụ Sản Trung ương, MLT vào những năm 60 là 9%, đến năm 2005 con số này tăng lên gần 40%.5
Trong cuộc khảo sát thực hiện vào năm 2007 – 2008 ở 122 bệnh viện công và tư nhân, chọn ngẫu nhiên tại các nước Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nepal, Philippines, Srilanca, Thái Lan và Việt Nam thì đứng đầu tỉ lệ MLT là Trung Quốc với tỉ lệ 46%, kế đến là Việt Nam (36%), Thái Lan (34%), Ấn Độ (18%), thấp nhất là Campuchia (15%).5

Download pdf

Tiếp cận chẩn đoán và điều trị bướu giáp nhân

Trần Viết Thắng*

Bướu giáp nhân là bệnh lý nội tiết rất thường gặp, đứng hàng thứ hai sau bệnh đái tháo đường. Tần suất bướu giáp nhân phát hiện được qua thăm khám lâm sàng chỉ chiếm khoảng 4–7%, tuy nhiên, với sự phát triển của siêu âm, tần suất nhân giáp phát hiện qua siêu âm có thể lên đến 19–67%.1 Bướu giáp nhân thường gặp ở nữ, gấp 4 lần so với nam, tần suất bướu giáp nhân tăng theo tuổi và gặp nhiều ở vùng có thiếu hụt iod. Biểu hiện lâm sàng của bướu giáp nhân có thể chỉ là một nhân giáp nhỏ, đơn độc được phát hiện tình cờ qua khám sức khỏe tổng quát cần phải loại trừ khả năng ung thư hay là bướu giáp nhân lớn gây triệu chứng chèn ép cần phải can thiệp điều trị. Hơn 90% bướu giáp nhân là lành tính, chỉ 5–10% là ác tính. Do đó, mục tiêu của tiếp cận bệnh nhân bị bướu giáp nhân là phát hiện và điều trị phẫu thuật những bệnh nhân có bướu giáp nhân ác tính hay có triệu chứng chèn ép rõ, đồng thời tránh những điều trị không cần thiết ở những bệnh nhân có bướu giáp nhân lành tính, không có triệu chứng.

Download pdf

Vì sao sulfonylurea vẫn còn vị trí trong điều trị đái tháo đường týp 2?

Trần Quang Khánh*

Sự xuất hiện của metformin vào năm 1957 và sau đó là các sulfonylurea (SU) hạ đường huyết thế hệ thứ nhất vào năm 1966 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong việc điều trị bệnh đái tháo đường (ĐTĐ). Người ta nhận ra rằng có thể kiểm soát đường huyết một cách hiệu quả bằng thuốc viên mà chưa cần phải dùng đến insulin ở bệnh nhân đái tháo đường người lớn. Theo thời gian và qua thực tế lâm sàng, những ưu điểm và nhược điểm của nhóm SU được nhận biết ngày càng đầy đủ. Cùng với sự tiến bộ của y học, những nhóm thuốc điều trị ĐTĐ mới được phát triển để đáp ứng nhu cầu điều trị ngày càng cao liên quan đến hiệu quả và tính an toàn của thuốc. Ngoài vị thế “không thể thay thế được” của metformin, SU bị cáo buộc về tính an toàn, đặc biệt trên tim mạch. Các cáo buộc này được quy là có “hiệu ứng nhóm” và vì vậy cũng đã xuất hiện những ý kiến cho rằng đã đến lúc về hưu của các thuốc SU. Bài viết dưới đây cố gắng trả lời câu hỏi vì sao SU vẫn còn hiện diện trong tất cả các lưu đồ điều trị ĐTĐ týp 2 trên khắp thế giới…

Download pdf

Yếu hai chân do đái tháo đường

Lê Tuyết Hoa* 

Trường hợp lâm sàng

Trường hợp 1

Bệnh nhân (BN) nữ, 58 tuổi, đến khám vì yếu và teo hai chân. Bà mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) 20 năm, đang uống metformin và sulfonylurea, không dùng statin một năm nay. Khoảng 6 tháng nay đường huyết thử tại nhà luôn quanh mức 400mg/dL, BN thường đau nhức hai bàn chân, đau nhói nhiều về đêm không ngủ được. 5 tháng nay ốm nhanh dù cố gắng ăn nhiều, đi đứng loạng choạng, dần dần bà nhận thấy không thể leo cầu thang và khó giữ được dép. Càng ngày càng không đứng nổi, yếu chân rõ kèm theo teo dần hai bắp chân và teo cả hai mông. Không có biến đổi thêm những bất thường về cảm giác. Gia đình không ai mắc bệnh teo cơ; bản thân trước đó chưa từng có triệu chứng tương tự.
Thăm khám: cân nặng 43kg, BMI 17,5kg/m2, huyết áp (HA) 160-170/90 mmHg, nhịp tim 92 lần/phút. Bàn chân khô, không rãnh nứt hay cục chai. Cơ bắp chân, cơ đùi, cơ mông hai bên teo rõ. Teo các cơ liên xương ở bàn chân. Mất hết các cảm giác sờ nông, nhiệt, cảm nhận rung vỏ xương với âm thoa 128 Hz, phản xạ gót, định vị ngón. Không thể đứng trên gót và ngón, không có dấu hiệu bàn tay cầu nguyện (bàn tay duỗi so với khớp cổ tay đến góc 90o).
Điện cơ chi dưới (EMG): Thần kinh (TK) chày trước, mác, L4, L5, S1 có điện thế đơn vị vận động (MUP) cao đa pha, kết tập giảm. Hình ảnh phù hợp với bệnh đa dây TK ngoại biên mạn tính mức độ vừa.
Xét nghiệm:HbA1c 12,5%, glucose máu đói 380 mg/dL, cholesterol 4,5 mmol/L, HDL 0,8, triglyce-ride: 2,5, creatinine 0,8mg/dL, TSH 2,8 mIU/L.
Chụp hình màu võng mạc:nhiều vi phình mạch, phù hoàng điểm dạng nang.
Điều trị:Chuyển sang dùng insulin, sau 3 tháng mới kiểm soát được đường huyết, glucose máu khi đói sáng và chiều khoảng 120-150mg/dL. Tiếp tục dùng thuốc hạ áp amlodipine 5mg, losartan 50mg, Concor 5mg mỗi ngày, HA duy trì ở mức 120/80 mmHg. Atorvastatin được dùng ở liều 20mg. Chỉ định pregalin 150mg, lipoic acid 300mg, vitamin 3B cho chứng đau TK. Chú trọng tập vật lý trị liệu, tập trung các bài tập tăng sức mạnh cho cơ.

Kết quả:sau 8 tháng điều trị và theo dõi, BN đã có thể lên cầu thang, mang dép không rớt; khối cơ cẳng chân và cơ đùi tăng kích thướcvà độ chắc. Cân nặng 50 kg (tăng 7kg). Bất thường TK nói trên ổn định suốt 3 năm nay.

Download pdf

Điều trị chống đông bằng thuốc uống: có gì mới hiện nay?

Hồ Huỳnh Quang Trí*

Thuốc kháng vitamin K đã được tìm ra từ hơn 60 năm và đã được dùng để điều trị chống đông từ hơn 40 năm nay.1 Các thuốc kháng vitamin K là những dẫn xuất coumarin, gồm warfarin, acenocoumarol, phenprocoumon và ethylbiscou-macetat. Các thuốc kháng vitamin K ức chế enzym vitamin K-epoxide-reductase và vitamin K-reductase, qua đó ức chế sự chuyển vitamin K dạng oxy-hóa thành vitamin K dạng khử. Hậu quả của sự thiếu hụt vitamin K dạng khử là suy giảm phản ứng carboxyl-hóa biến tiền yếu tố đông máu (chưa có hoạt tính) thành yếu tố đông máu có hoạt tính.2 Như vậy, cơ chế tác dụng của thuốc kháng vitamin K là ức chế sự tổng hợp dạng có hoạt tính của các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K (gồm yếu tố II, VII, IX và X).
Chỉ định dùng thuốc kháng vitamin K gồm: ngừa đột quỵ và thuyên tắc mạch hệ thống trong bệnh van hai lá hậu thấp, ở bệnh nhân rung nhĩ, ngừa huyết khối van tim nhân tạo và phòng ngừa cấp hai[WU1] [LAB2] thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc động mạch phổi). Hiện nay INR được xem là xét nghiệm chuẩn để đánh giá mức độ chống đông bằng thuốc kháng vitamin K.2 Vì  không thể có được một giá trị INR cố định trong suốt quá trình điều trị dài hạn, các hướng dẫn thực hành thường đưa ra một khoảng INR cần đạt (2,5 – 3,5 đối với người mang van tim nhân tạo cơ học và 2 – 3 trong những trường hợp còn lại). Liều thuốc kháng vitamin K được điều chỉnh để đạt INR trong khoảng này. Duy trì  INR trong một khoảng nào đó là một công việc rất khó khăn. INR có thể dao động (dù liều thuốc kháng vitamin K không đổi) do những thay đổi của lượng vitamin K trong khẩu phần ăn (các loại thức ăn chứa nhiều vitamin K gồm bắp cải, bông cải, cải xoăn, rau diếp, rau bina, gan bò, gan heo), do thay đổi của chức năng gan, do tương tác thuốc (thuốc kháng vitamin K tương tác với rất nhiều thuốc) hoặc do bệnh nhân không tuân trị.2 Trên thực tế, để duy trì INR trong một khoảng đích cần thực hiện xét nghiệm này một cách định kỳ, không thưa hơn một lần mỗi tháng và mỗi khi có phối hợp thêm một thuốc có thể tương tác với thuốc kháng vitamin K. Ngoài ra, cần coi trọng việc huấn luyện, giáo dục bệnh nhân. Gần đây hãng Roche Diagnostics giới thiệu một dụng cụ đo INR trên máu mao mạch trích từ đầu ngón tay (tương tự như dụng cụ đo đường huyết mao mạch). Dụng cụ này (mang tên CoaguChek) cho phép đơn giản hóa việc theo dõi INR, bệnh nhân có thể dùng nó để tự theo dõi và điều chỉnh liều thuốc kháng vitamin K tại nhà. Một nghiên cứu phân nhóm ngẫu nhiên trên 737 bệnh nhân cho thấy tự theo dõi INR và điều chỉnh liều thuốc tại nhà với dụng cụ CoaguChek giúp đạt hiệu quả chống đông và độ an toàn tương đương điều trị chống đông qui ước tại phòng khám.3
Nói chung, thuốc kháng vitamin K có nhiều nhược điểm như: khởi phát tác dụng chậm, cách theo dõi điều trị phức tạp, khoảng trị liệu hẹp, tương tác với nhiều loại thức ăn và thuốc. Từ đầu thế kỷ này, các nhà nghiên cứu đã tìm cách phát triển những thuốc chống đông uống mới không có các nhược điểm nêu trên. Hai nhóm thuốc đã được đưa vào dùng trong lâm sàng là nhóm ức chế trực tiếp thrombin và nhóm ức chế trực tiếp Xa…

Hội y học tp. Hồ chí minh sau 35 năm xây dựng và phát triển (1979 – 2014)

Trương Thị Xuân Liễu* Huỳnh Anh Lan** Huỳnh Liên Đoàn***

Đại hội đại biểu kết thúc nhiệm kỳ VII và khởi đầu nhiệm VIII đánh dấu 35 năm sự ra đời của Hội Y học (TP. Hồ Chí Minh. Một quá trình 35 năm, quá dài để có thể tổng kết trong vài trang giấy, cho nên trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ xin hồi tưởng vài nét lịch sử và chia sẻ một số suy nghĩ về xu hướng phát triển của Hội Y học trong thời gian qua.

Hội Y học TP.HCM– vài nét lịch sử

Hội Y học TP.HCM (HYH) ra đời cách đây 35 năm, trong bối cảnh sau ngày giải phóng công việc còn ngổn ngang, khó khăn còn chồng chất, các cán bộ ngành y tế có nhiều suy tư về cuộc sống và vị trí của mình trong xã hội mới. Lúc đó các cán bộ y tế TP.HCM, từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, có tâm tư trăn trở khác nhau, nhưng đều sớm ý thức là cần có một tổ chức khoa học nghề nghiệp để có nơi sinh hoạt chung. Từ năm 1978, Ban Vận động thành lập Hội, bao gồm các cán bộ lãnh đạo ngành y tế TP, các giáo sư đầu ngành ở các Trường Viện, đã tổ chức cho các cán bộ khoa học kỹ thuật trong ngành y đăng ký gia nhập Hội, xây dựng mạng lưới Chi hội ở hầu hết các cơ sở y tế   quân và dân y tại TP.HCM. Ngày 24/1/1979, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của giới y học TP.HCM với trên 300 đại biểu thuộc các Chi hội Y, Nha, Dược của Hội Trí thức Yêu nước TP.HCM, sau khi bàn bạc thống nhất việc thành lập Hội Y học TP.HCM, đã bầu ra ban Chấp hành nhiệm kỳ I của HYH TP.HCM (1979 – 1983) với Chủ tịch đầu tiên là TS. DS Nguyễn Duy Cương, lúc đó là Giám đốc Sở Y tế TP.HCM. Đến khi TS Nguyễn Duy Cương nhận nhiệm vụ Thứ trương Bộ Y tế, Đại hội đại biểu lần thứ 2 bầu GS Phạm Biểu Tâm làm Chủ tịch Hội Y học nhiệm kỳ II (1983 – 1987). Sau khi GS Phạm Biểu Tâm định cư ở nước ngoài, VS. TS Dương Quang Trung được bầu làm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ III (1987 – 1991). Lúc đó, Hội Y học đổi tên thành Hội Y Dược học TP.HCM và đặt trụ sở tại 59B Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1. Trong ba nhiệm kỳ đầu của HYH, Tổng Thư ký Hội là BS Trần Xuân Thu. Đến nhiệm kỳ IV (1991- 1996) VS. TS Dương Quang Trung tiếp tục làm chủ tịch Hội. Qua đến nhiệm kỳ V, TS Nguyễn Duy Cương trở lại làm Chủ tịch Hội, nhiệm kỳ này kéo dài từ 1996 đến 2004. Trong nhiệm kỳ IV và V, Tổng Thư ký Hội là DS Huỳnh Văn Nhiệm. Đến ngày 30/10/2004, Đại hội đại biểu thống nhât việc tách Hội Y học TP.HCM và Hội Dược học TP.HCM, bầu ban Chấp hành (BCH), thông qua điều lệ sửa đổi và phương hướng hoạt động của HYH nhiệm kỳ VI (2004- 2009). VS. TS Dương Quang Trung được bầu làm Chủ tịch Hội và TS Phạm Duy Linh làm Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư Ký Hội. Ngày 10/01/2005, Ủy Ban Nhân dân TP.HCM ra Quyết định số 112/ QĐ-UB công nhận BCH mới, và Quyết định số 113/QĐ-UB phê duyệt điều lệ sửa đổi, tổ chức và hoạt động của HYH TP.HCM. Kế đến nhiệm kỳ VII (2009-2014), VS. TS Dương Quang Trung tiếp tục được tín nhiệm làm Chủ tịch Hội, đến ngày 20/6/2012 khi ông mất thì BS Trương Thị Xuân Liễu được BCH bầu làm Phó Chủ tịch Thường trực cho đến khi tiến hành Đại hội đại biểu NK VIII vào ngày 27 tháng 9, 2014. BS Huỳnh Anh Lan là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký, BS Huỳnh Liên Đoàn làm Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng của nhiệm kỳ VII.

Nhiều thầy cô, cán bộ lão thành, đàn anh đàn chị trong ngành y tế TP.HCM đã đóng góp biết bao công sức và trí tuệ để xây dựng Hội Y học cho đến ngày nay. Chúng tôi xin đính kèm danh sách tổng hợp của các Ban Chấp hành HYH từ nhiệm kỳ I đến nhiệm kỳ VII để chúng ta cùng nhau tưởng nhớ những gương mặt trí thức của ngành Y đã làm nên HYH TP.HCM ngày hôm nay. (xem Phụ lục: Danh sách các ủy viên tham gia Ban Chấp hành HYH từ NK I – NK VII)…

Download pdf

Lao khẩu hầu: nhân một trường hợp

Phan Vương Khắc Thái, Nguyễn Thị Phương Loan, Nguyễn Thị Mộng Trinh, Nguyễn Tuấn Tài, Nguyễn Đình Thắng,  Lê Đình Thông,  Nguyễn Đình Duy, Nguyễn Huy Dũng, và cs *


Summary
OROPHARYNGEAL TUBERCULOSIS – A CASE REPORT
Oropharyngeal tuberculosis, which is usually secondary to pulmonary tuberculosis (TB), is a rare manifestation. We report a case of oropharyngeal tuberculosis in an old man at the Tuberculosis Department for Men (A4) at Pham Ngoc Thach Hospital.
A 62-year-old male patient, who was transferred from Ho Chi Minh City Oncology Hospital with diagnosis of oropharyngeal tuberculosis by biopsy, presented to the Tuberculosis Department (A4) with the chief complaints of sore throat, loss of appetite, odynophagia and malaise. He was unable to swallow both liquid and solid food and had lost 10 kg of body weight within the last two months. Right cervical lymph nodes were detected. Oral and oropharyngeal examination showed that the posterior oropharyngeal wall mucosa was hyperemic and covered with multiple large, gray-white plaques of varying sizes. Chest radiograph showed ill-defined and irregular opacity in right lung and infiltrates at basal and axillary zones in left lung. Blood tests were within normal limits and HIV testing was negative. Sputum for acid fast bacilli (AFB) was positive and biopsy of lymph node showed images suggestive of tuberculosis. The patient was started on anti-TB treatment drugs (2SRHZE/1RHZE/5R3H3E3) together with antibiotics, symptomatic management and blood transfusion. After nearly 1 month of treatment, he recovered from symptoms and had normal appearing oropharyngeal mucosa. He was transferred to local TB unit for continuing treatment and follow-up.
The possibility of tuberculosis should be keep in mind, especially in developing countries where the incidence of tuberculosis is high. If ulcer lesions in the oropharynx or oral cavity does not respond to antibiotics, biopsy should be performed to confirm diagnosis.

Download pdf

Điều trị sỏi thận và niệu quản bằng sóng xung kích

Nguyễn Hoàng Đức* 

Summary
SHOCKWAVE LITHOTRIPSY FOR RENAL AND URETERIC CALCULI
Nearly 30 years after its revolutionary introduction, shock wave lithotripsy (SWL) is a well-established and safe treatment modality for the majority of stones in upper urinary tract. Generally, in adults with normal anatomy, SWL should be the first-line treatment for non-lower pole stones of < 20 mm in the kidneys and stones of < 10 mm in the ureter. In pediatric urolithiasis, the indications for SWL are similar to those in adults, although even staghorn stones can be treated successfully.

* Khoa Niệu, Bệnh viện FV và Bệnh viện Đại học Y Dược

Download pdf

Điểm mới trong điều trị tăng đường huyết cho người cao tuổi

Lê Tuyết Hoa*


Tóm tắt
Chăm sóc và điều trị đái tháo đường (ĐTĐ) cho người có tuổi phức tạp hơn người trẻ bởi nhiều bệnh lý kết hợp, bởi các thuốc hạ đường huyết hiện tại có mức độ lợi ích lẫn nguy cơ khác nhau và những chứng cứ về việc kiểm soát đường huyết tích cực mang lại lợi ích cho tim mạch chưa được khẳng định. Kiểm soát đường huyết chỉ là một phần trong điều trị đa yếu tố để kiểm soát tất cả nguy cơ tim mạch và bệnh mạch máu nhỏ. Mục đích của kiểm soát đường huyết là giảm thiểu biến chứng mạn tính và tránh sự cố hạ đường huyết nặng. Xác lập mục tiêu đường huyết cho từng người là điều quan trọng đầu tiên. Mục tiêu này không buộc HbA1c phải dưới 6,5% hay 7% mà phải xem xét những ưu tiên hàng đầu bao gồm thời gian sống của người bệnh, những bệnh đi kèm, tính an toàn cho người có tuổi, cân nhắc những nguy cơ hạ đường huyết và lợi ích trên biến chứng vi mạch.
Bên cạnh đề kháng insulin và giảm tiết insulin là những bất thường chính trong ĐTĐ týp 2, một vài cơ chế khác cũng góp phần tăng đường huyết. Do vậy hiện đã có thêm nhóm incretin và nhóm ức chế hấp thu đường ở thận (chờ phê duyệt) làm hạ đường huyết theo cơ chế sinh bệnh. Tiếp tục có thêm nhiều nghiên cứu mới trên nhóm incretin để khẳng định độ an toàn và lợi ích trên người cao tuổi. Insulin thế hệ mới (insulin analog) dù loại tác dụng dài hay pha trộn đều tiện dùng cho người cao tuổi vì ít gây hạ đường huyết, tác động hiệu quả suốt 24 giờ (đối với insulin analog tác dụng dài), kiểm soát đường sau ăn tốt và linh động theo bữa ăn dễ hơn insulin người.
Tác động của ĐTĐ lên chức năng nhận thức, nguy cơ trầm cảm, viêm khớp, tăng nguy cơ gãy xương hông và vai trò của vitamin D trong đề kháng insulin gần đây được lưu ý nhiều vì ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ĐTĐ và chất lượng sống của người bệnh có tuổi.


*TS BS Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM