Author Archives: admin

Sự biến thiên của gen mã hóa các phân tử dính và trợ viêm có liên quan với sốt rét nặng trên bệnh nhân người việt

SJ Dunstan1,2, KA Rockett3, NTN Quyên1, YYTeo4, CQ Thái5, NT Hằng1, A Jeffreys3, G Clark6, KS Small7, CP Simmons1,2, N Day8, SE O’Riordan1, DP Kwiatkowski3,9, J Farrar1,2, NH Phú1,5 và TT Hiền1,5, cộng tác với MalariaGEN Consortium3,9


Tóm tắt
Cơ sở di truyền của tính cảm nhiễm sốt rét đã được nghiên cứu rộng rãi trên các quần thể người châu Phi nhưng sự đóng góp của các biến thể di truyền chuyên biệt trong các quần thể người châu Á chưa được biết nhiều. Chúng tôi đã xác định kiểu gen của 67 thể đa hình đơn-nucleotid (SNP) trên 1030 trường hợp sốt rét nặng và 2840 trường hợp đối chứng ở Việt Nam. Sau khi kiểm tra chất lượng dữ liệu, dữ liệu kiểu gen của 956 ca bệnh và 2350 người đối chứng được phân tích đối với 65 SNP (3 SNP xác định giới tính, 62 nằm trên/gần 42 gen ứng viên sốt rét). Tổng cộng có 14 SNP đơn hình và 2 SNP (rs8078340 và rs33950507) không ở trạng thái cân bằng Hardy–Weinberg trên các đối tượng đối chứng (P<0,01). Có 7/46 SNP trên 6 gen (ICAM1, IL1A, IL17RC, IL13, LTA và TNF) có liên quan với sốt rét nặng, với 3/7 SNP ở vùng TNF/LTA. Sự tương quan kiểu gen–kiểu hình giữa SNP và các thông số lâm sàng cho thấy kiểu gen rs708567 (IL17RC) tương quan với mật độ ký sinh trùng trong máu (P=0,028, r2=0,0086), đồng hợp tử GG có lượng ký sinh trùng thấp nhất. Ngoài ra, đồng hợp tử GG rs708567 có nguy cơ sốt rét nặng (P=0,007, OR=0,78 (KTC 95%: 0,65–0,93)) và chết (P=0,028, OR=0,58 (KTC 95%: 0,37–0,93)) thấp hơn các kiểu gen AA và AG. Tóm lại, các biến thể trong 6 gen mã hóa các phân tử dính và trợ viêm có liên quan với sốt rét nặng trên người Việt Nam. Cần có thêm các nghiên cứu tương tự trên các dân số độc lập để khẳng định những kết quả này.
Từ khóa: sốt rét nặng; SNP; kết hợp di truyền; ICAM1; TNF; IL17RC

Abstract
VARIATION IN HUMAN GENES ENCODING ADHESION AND PROINFAMMATORY MOLECULES ARE ASSOCIATED WITH SEVERE MALARIA IN THE VIETNAMESE
The genetic basis for susceptibility to malaria has been studied widely in African populations but less is known of the contribution of specific genetic variants in Asian populations. We genotyped 67 single-nucleotide polymorphisms (SNPs) in 1030 severe malaria cases and 2840 controls from Vietnam. After data quality control, genotyping data of 956 cases and 2350 controls were analysed for 65 SNPs (3 gender confirmation, 62 positioned in/near 42 malarial candidate genes). A total of 14 SNPs were monomorphic and 2 (rs8078340 and rs33950507) were not in Hardy–Weinberg equilibrium in controls (P<0.01). In all, 7/46 SNPs in 6 genes (ICAM1, IL1A, IL17RC, IL13, LTA and TNF) were associated with severe malaria, with 3/7 SNPs in the TNF/LTA region. Genotype–phenotype correlations between SNPs and clinical parameters revealed that genotypes of rs708567 (IL17RC) correlate with parasitemia (P=0.028, r2=0.0086), with GG homozygotes having the lowest parasite burden. Additionally, rs708567 GG homozygotes had a decreased risk of severe malaria (P=0.007, OR=0.78 (95% CI; 0.65–0.93)) and death (P=0.028, OR=0.58 (95% CI; 0.37–0.93)) than those with AA and AG genotypes. In summary, variants in six genes encoding adhesion and proinflammatory molecules are associated with severe malaria in the Vietnamese. Further replicative studies in independent populations will be necessary to confirm these findings.
Keywords: severe malaria; SNP; genetic association; ICAM1; TNF; IL17RC

Đơn vịNghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford, TP.HCM Việt Nam;
Khoa Y học Lâm sàng Nuffield, Trung tâm Y học Nhiệt đới, Đại học Oxford, Oxford, Vương quốc Anh;
Trung tâm Di truyền học Người Wellcome Trust, Đại học Oxford, Oxford, Vương quốc Anh,
Bộmôn Thống kê và Xác suất ứng dụng, Đại học Quốc gia Singapore, Singapore;
Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, TP. HồChí Minh, Việt Nam;
Trường Vệsinh và Y học Nhiệt đới London,  Vương quốc Anh;
Bộmôn Nghiên cứu Song sinh và Dịch tễhọc Di truyền, King’s College London, London, Vương quốc Anh;
Đơn vịNghiên cứu Mahidol-Oxford, Khoa Y học Nhiệt đới, Đại học Mahidol, Bangkok, Thái Lan và
ViệnWellcome Trust Sanger, Hinxton, Vương quốc Anh.

Kết quả bước đầu điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng siêu âm hội tụ cường độ cao (hifu) trên bệnh nhân có nguy cơ trung bình-cao

Nguyễn Hoàng Đức* Phó Minh Tín* Lê Phúc Liên*

Tóm tắt
Mục đích: Đánh giá hiệu quả bước đầu điều trị ung thư tuyến tiền liệt (TTL) trên bệnh nhân có nguy cơ trung bình-cao bằng siêu âm hội tụ cường độ cao (HIFU).
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, thí điểm, không nhóm chứng với 33 bệnh nhân ung thư TTL có nguy cơ trung bình đến cao (theo phân loại D’Amico) điều trị bằng HIFU (Sonablate, Focus Surgery) tại Bệnh viện Đại học Y Dược từ tháng 4/2010 đến tháng 2/2012. Sau điều trị, bệnh nhân được theo dõi PSA máu và sinh thiết TTL ở các thời điểm 6 và 12 tháng. Thống kê mô tả với SPSS 12.0
Kết quả: Tuổi trung bình 70 ± 1,6 (thay đổi từ 47 đến 86 tuổi). PSA trung bình trước điều trị 40,9 ng/mL ± 40,2 (thay đổi từ 2,3 đến 197 ng/mL). Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao chiếm 84,8% (n = 28) và nhóm nguy cơ trung bình là 15,2% (n = 5). Thời gian trung bình thực hiện HIFU là 149 phút ± 44 (thay đổi từ 70 – 240 phút). Thời gian nằm viện trung bình sau HIFU là 26 giờ ± 11 (thay đổi từ 8 – 48 giờ). Ở thời điểm 6 tháng sau HIFU, tỉ lệ tái phát về mặt sinh hóa là 25% và tỉ lệ thất bại điều trị là 19,3%. Ở thời điểm 12 tháng sau HIFU, tỉ lệ tái phát về mặt sinh hóa là 42,8% và tỉ lệ thất bại điều trị là 58,8%. Tỉ lệ bệnh nhân hẹp niệu đạo sau phải nong định kỳ là 27,2%, tiểu không kiểm soát là 6% và rò bàng quang-trực tràng là 3%.
Kết luận: Để đánh giá vai trò chính xác của HIFU đối với bệnh nhân ung thư TTL nhóm nguy cơ trung bình – cao, cần có những nghiên cứu với số lượng bệnh nhân nhiều hơn và theo dõi lâu dài hơn.

Summary
SHORT-TERM OUTCOMES OF PATIENTS WITH INTERMEDIATE AND HIGH RISK PROSTATE CANCER TREATED WITH HIGH-INTENSITY FOCUSED ULTRASOUND (HIFU)
Objective: To assess short-term outcomes of patients with intermediate and high risk prostate cancer treated with HIFU.
Objective: To assess short-term outcomes of patients with intermediate and high risk prostate cancer treated with HIFU.
Material and methods: From April 2010 to February 2012, 33 men with intermediate to high risk prostate cancer (D’Amico classification) were treated with HIFU (Sonablate, Focus Surgery) at the University Medical Centre of Ho Chi Minh City. Outcome data (biochemical failure and positive prostate biopsy) at 6 and 12 months were evaluated.
Results: Mean age of patients was 70 ± 1.6 years (range, 47 to 86). Mean PSA level was 40.9 ± 40.2 ng/mL (range, 2.3 to 197). Intermediate- and high-risk subgroups represented 15.2% and 84.8% of patients, respectively. Mean operation duration was 149 ± 44 minutes (range, 70 to 240). Mean post-HIFU hospital stay was 26 ± 11 hours (range, 8 to 48). Biochemical failure rates at 6 and 12 months were 25% and 42.8%, respectively. Positive biopsies were noted in 19.3% at 6 months and 58.8% at 12 months. Complications included urethral stricture (27.2%), urinary incontinence (6%) and vesicorectal fistula (3%).
Conclusion:High-intensity focused ultrasound therapy appears to be minimally invasive for patients with intermediate to high risk prostate cancer. Further long-term studies with large sample sizes are needed to evaluate its efficacy in this population.


*Đơn vịHIFU – Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM

Chức năng tim trên bệnh nhân người việt bị sốt dengue ở những độ nặng khác nhau

Sophie Yacoub1, Anna Griffiths2, Trần Thị Hồng Châu3, Cameron P. Simmons4, Bridget Wills4, Trần Tịnh Hiền4, Michael Henein5, và Jeremy Farrar4


Tóm tắt
Mục tiêu: Sốt dengue tiếp tục gây ra một bệnh suất và tử suất có ý nghĩa trên toàn cầu. Thể bệnh nặng ẩn chứa sự đe dọa tim mạch do rò rỉ mao mạch. Tổn thương tim trong sốt xuất huyết cũng đã được báo cáo nhưng chưa được nghiên cứu thỏa đáng.
Địa điểm: Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Đối tượng và thiết kế:Nghiên cứu gồm 79 bệnh nhân từ 8–46 tuổi bị sốt dengue ở những độ nặng khác nhau được khảo sát siêu âm tim bao gồm hình ảnh học Doppler mô. Bệnh nhân được chia theo độ nặng của bệnh: sốt dengue đơn thuần, dengue có các dấu hiệu báo động, và dengue nặng. Những thay đổi trong các thông số chức năng tim và chỉ số huyết động học được theo dõi trong thời gian nằm viện.
Can thiệp: Không có.
Kết quả chính: Chức năng tim của bệnh nhân dengue nặng xấu hơn so với bệnh nhân dengue đơn thuần dưới dạng rối loạn chức năng tâm thu thất trái với tăng chỉ số hiệu năng cơ tim (0,58 (0,26–0,80) so với 0,38 (0,22– 0,70), p=0.006). giảm vận tốc tâm thu cơ tim vách (6,4 (4,8 –10) so với 8,1 (6 –13) cm/s, p=0,01), cũng như vận tốc tâm thu thất phải (11,4 (7.5–17) so với 13,5 (10 –17) cm/s, p=0,016) và vận tốc tâm trương (13 (8–23) so với 17 (12–25) cm/s, p=0,0026). Ở nhóm bệnh nặng, lúc ra viện những thông số này được cải thiện so với khi nhập viện; vận tốc tâm thu cơ tim vách đạt 8,8 (7–11) cm/s (p=0,002), vận tốc tâm thu thất phải đạt 15,0 (11,8 –23) cm/s, (p=0,003), và vận tốc tâm trương đạt 21 (11–25) cm/s (p=0,002). Bệnh nhân giảm chức năng tim có nhiều khả năng tràn dịch màng phổi hơn.
Kết luận: Bệnh nhân dengue nặng có bằng chứng suy tim tâm thu và tâm trương với ảnh hưởng chủ yếu là ở vách tim và thành thất phải.

Abstract
CARDIAC FUNCTION IN VIETNAMESE PATIENTS WITH DIFFERENT DENGUE SEVERITY GRADES

Objective: Dengue continues to cause significant global morbidity and mortality. Severe disease is characterized by cardiovascular compromise from capillary leakage. Cardiac involvement in dengue has also been reported but has not been adequately studied.
Setting: Hospital for Tropical Diseases, Ho Chi Minh City, Vietnam.
Subjects and Design: Seventy-nine patients aged 8–46 yrs with different dengue severity grades were studied using echocardiography including tissue Doppler imaging. The patients were split into severity grades: dengue, dengue with warning signs, and severe dengue. Changes in cardiac functional parameters and hemodynamic indices were monitored over the hospital stay.
Intervention: None.
Measurements and Main Results: Patients with severe dengue had worse cardiac function compared with dengue in the form of left ventricular systolic dysfunction with increased left myocardial performance index (0.58 (0.26–0.80) vs. 0.38 (0.22– 0.70), p=0.006). Septal myocardial systolic velocities were reduced (6.4 (4.8 –10) vs. 8.1 (6 –13) cm/s, p=0.01) as well as right ventricular systolic (11.4 (7.5–17) vs. 13.5 (10 –17) cm/s, p=0.016) and diastolic velocities (13 (8 –23) vs. 17 (12–25) cm/s, p=0.0026). In the severe group, these parameters improved from hospital admission to discharge; septal myocardial systolic velocities to 8.8 (7–11) cm/s (p=0.002), right ventricular myocardial systolic velocities to 15.0 (11.8 –23) cm/s, (p=0.003), and diastolic velocity to 21 (11–25) cm/s (p=0.002). Patients with cardiac impairment were more likely to have significant pleural effusions.
Conclusions: Patients with severe dengue have evidence of systolic and diastolic cardiac impairment with septal and right ventricular wall being predominantly affected.

1Bộmôn Nhiễm và Miễn dịch, Imperial College, London, Vương quốc Anh,
2Khoa Siêu âm tim, Guys & St. Thomas’ NHS Trust, London, Vương quốc Anh
3Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, Tp. HồChí Minh, Việt Nam
4Đơn vịNghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford, Chương trình nghiên cứu hải ngoại, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, Tp. HồChí Minh, Việt Nam
5Bộmôn Y tế Công cộng và Y học Lâm sàng, Đại học Umea Thụy Điển và Đại học Giáo hội Công giáo Canterbury, Canterbury, Vương quốc Anh .
Công trình nghiên cứu này được  Wellcome Trust (Vương quốc Anh) tài trợ.

Yếu tố dinh dưỡng trong rối loạn tăng động-giảm chú ý (adhd)

Còn nhiều ý kiến trái ngược nhau về vai trò của bổ sung dinh dưỡng và chế độ ăn trong nguyên nhân và điều trị rối loạn tăng động–giảm chú ý (ADHD: attention deficit/hyperactivity disorder) ở trẻ em, nhưng đề tài này tiếp tục được các bậc cha mẹ và thầy thuốc – những người chuộng dùng những biện pháp thay thế cho thuốc kích thích hoặc muốn tìm một liệu pháp bổ sung – quan tâm. Tuy việc dùng thuốc để điều trị ADHD đã gia tăng đều đều từ những năm 1960, nhưng trong cùng thời gian ấy cũng phổ biến nhiều chế độ ăn khác nhau. Trong việc chọn lựa một liệu pháp cho ADHD, thầy thuốc thường ưa dùng thuốc có giá trị được chứng minh bằng những thử nghiệm có đối chứng. Các chế độ ăn khó đánh giá hơn, và các thử nghiệm thường đòi hỏi loại bỏ một số thức ăn và phẩm màu cần có sự giám sát của thầy thuốc và chuyên viên dinh dưỡng.

Download pdf

Hiểu thêm về những chế phẩm thuộc nhóm ức chế dpp-4 trong điều trị đái tháo đường týp 2 hiện nay

Lê Tuyết Hoa*


Ngoài can thiệp thay đổi lối sống (vận động và chế độ ăn và giáo dục) là phần cơ bản quan trọng, chưa lúc nào như hiện nay, thầy thuốc có nhiều thuốc điều trị bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) theo đúng cơ chế. Không chỉ kiểm soát đường huyết, mà còn nhắm đến tính an toàn cho tim mạch, ít ảnh hưởng bất lợi trên lipid máu, bảo tồn được hoặc ít làm suy giảm chức năng tế bào β tụy và cải thiện tình trạng đề kháng insulin tại mô gan, cơ, mỡ, cơ tim. Tại Việt Nam danh sách các thuốc hạ đường huyết khác insulin hiện nay đã có thêm nhóm ức chế dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4).

*TS BS Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM

Pioglitazone vẫn còn chỗ đứng trong điều trị đái tháo đường?

Lê Tuyết Hoa*

*TS BS Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM


Đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 là rối loạn của nhiều thành tố như đề kháng insulin, khiếm khuyết bài tiết insulin và tăng sản xuất glucose tại gan. Các bất thường này xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau trên người ĐTĐ týp 2. Thuốc hạ đường huyết hiện có đều nhắm đến cơ chế bệnh sinh. Trong số đó, thuốc metformin và thiazolidinedione giải quyết cơ chế đề kháng insulin và giảm sản xuất đường ở gan.  Metformin ra đời vào năm 1957 nhưng mãi đến năm 1995 mới tiếp cận thị trường Hoa Kỳ. Được phát minh vài năm sau đó, thiazone, đồng vận của thụ thể PPAR-gamma, giúp mô mỡ, gan, cơ tăng nhạy cảm insulin và bảo vệ được tế bào beta.

Download pdf

Khảo sát mức độ đề kháng kháng sinh của acinetobacter và pseudomonas phân lập tại bệnh viện bệnh nhiệt đới năm 2010

Nguyễn Phú Hương Lan* Nguyễn Văn Vĩnh Châu* Đinh Nguyễn Huy Mẫn* Lê Thị Dưng*
Nguyễn Thị Thu Yến*

 

* Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP.HCM

Tóm tắt
Nhiễm khuẩn do trực trùng Gram âm kháng thuốc, thường do Acinetobacter và Pseudomonas, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam. Khảo sát này thực hiện trên 181 bệnh phẩm dịch hút khí quản và 396 mẫu cấy máu dương tính tại Bệnh viện (BV) Bệnh Nhiệt Đới TP Hồ Chí Minh trong năm 2010. Trong dịch hút khí quản, Acinetobacter phân lập được với tỉ lệ cao 50,5% (92 mẫu) và Pseudomonas 31% (71 mẫu). Tỉ lệ phân lập thấp hơn trong cấy máu với Acinetobacter 4% (16 chủng) và Pseudomonas 3% (14 chủng). Pseudomonas có tỉ lệ kháng thuốc với các kháng sinh cephalosporin thế hệ III, fluoroquinolone, các phối hợp cephalosporin- thuốc ức chế b-lactamase từ 18-32% trong dịch hút khí quản và từ 0-21% trong cấy máu. Vi khuẩn này đềkháng thấp với imipenem (4,1%) và với meropenem (1,4%).
Acinetobacter đa kháng và kháng carbapenem rất cao trong dịch hút khí quản (75%) trong khi tỉ lệ này thấp hơn trong cấy máu (31%). Hầu hết các chủng kháng với imipenem cũng kháng với meropenem. Không phân lập được chủng Acinetobacter spp nào kháng colistin trong năm 2010.
Tỉ lệ Acinetobacter và Pseudomonas đa kháng thuốc phân lập được trong dịch hút khí quản với tỉ lệ cao. Kết quả thử nghiệm nhạy cảm kháng sinh cho thấy meropenem và imipenem là lựa chọn điều trị cho hai vi khuẩn này.

Abstract
An investigation of antibiotic resistance of Acinetobacter and Pseudomonas SPP. isolated at Hospital for Tropical Diseases, Hochiminh city in 2010.

Infections with multi-drug resistant Gram negative bacilli, especially Acinetobacter and Pseudomonas spp, were among the top infectious causes ofdeath all over the world as well as in Vietnamese hospitals. This study investigated on181 tracheal aspirate (TA) samples and 396 positive blood cultures collected in 2010 at Hospital for Tropical Diseases, Hochiminh City. In tracheal aspirate samples, Acinetobacter was isolated with the highest rateof 50.5% (92 specimens) and Pseudomonas of 31% (71 specimens). The figures for blood cultures were lower with 4% for Acinetobacter (16 isolates) and 3% for Pseudomonas (14 isolates).
 Pseudomonas spp were found to have resistance to cephalosporins of 3rd generation (3-G), fluoroquinolones, combinations of 3-G cephalosporin and b-lactamase inhibitors in the order of 18% to 32% in TA and less than 21% in blood samples. This pathogen had a low resistance rate to imipenem (4.1%) and to meropenem (1.4%).
 Acinetobacter spp isolated from tracheal aspirate samples were also reported to resist to various antibiotics including carbapenem at higher rate (75%)than those from blood samples (31%). The resistance rates of  Acinetobacter spp to imipenem and meropenem are almost the same. Most of the imipenem resistant strains were also meropenem resistant. There was no isolates that resisted to colistin in 2010.
Multidrug-resistant Acinetobacter and Pseudomonas spp in tracheal aspirate samples were found at large proportion. Susceptibility testing showed that meropenem and imipenem were the drugs of choice for these two resistant pathogens.

Download pdf

Mối liên quan giữa các marker chu chuyển xương và mật độ xương

Hồ Phạm Thục Lan1 Nguyễn Thanh Tòng2 Nguyễn Đình Nguyên3 Nguyễn Văn Tuấn3,4


Tóm tắt
Mật độ xương biến đổi theo độ tuổi, và mức độ biến đổi chịu sự tác động của quá trình chu chuyển xương. Hai yếu tố quan trọng trong quá trình chu chuyển xương là tế bào tạo xương và tế bào hủy xương. Cường độ hoạt động của hai loại tế bào này có thể đo lường được qua các marker chu chuyển xương. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu mối liên hệ giữa các marker chu chuyển xương và mật độ xương ở nam và nữ.
Nghiên cứu được thiết kế theo mô hình cắt ngang, với 205 nam và 432 nữ trong độ tuổi 18-87, được chọn ngẫu nhiên từ các quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Nồng độ P1NP và beta-CTX được phân tích bằng kỹ thuật miễn dịch điện hóa phát quang (ECLIA) qua sử dụng hệ thống Roche Elecsys 1010/2010 (Roche Diagnosis Elecsys). Ngoài ra, các đối tượng còn được đo mật độ xương bằng máy Hologic QDR Apex 4500 tại hai vị trí cổ xương đùi và cột sống thắt lưng. Mối tương quan giữa mật độ xương và P1NP và/hoặc beta-CTX được đánh giá bằng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, có điều chỉnh đối với ảnh hưởng của tuổivà trọng lượng cơ thể.
Kết quả phân tích cho thấy P1NP và beta-CTX thay đổi theo độ tuổi ở cả nam và nữ, và mức độ biến đổi ở nữ cao hơn ở nam. Phân tích hồi quy tuyến tính cho thấy chỉ có marker hủy xương beta-CTX có liên quan với mật độ xương ở cả hai vị trí cổ xương đùi và cột sống thắt lưng. Người có mức độ beta-CTX càng cao thì mật độ xương càng thấp. Mối tương quan này độc lập với yếu tố tuổi và trọng lượng cơ thể. Ngược lại, không tìm thấy sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa marker tạo xương P1NP và mật độ xương. Trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, các biến tuổi, cân nặng và beta-CTX giải thích khoảng 40% những khác biệt giữa các cá nhân về mật độ xương ở vị trí cổ xương đùi và 53,5% ở cột sống thắt lưng. Riêng beta-CTX giải thích 0,7% phương sai của mật độ xương cổ xương đùi và 3,1% xương thắt lưng cột sống.
Các kết quả trên cho thấy marker hủy xương tăng ở nữ sau mãn kinh nhiều hơn ở nam lớn tuổi, và marker hủy xương có tương quan tỉ lệ nghịch với mật độ xương tại cả hai vị trí cổ xương đùi và cột sống thắt lưng. Kết quả này cho thấy có thể sử dụng các marker chu chuyển xương như là một công cụ hỗ trợ cho chẩn đoán loãng xương.

Abstract
ASSOCIATIONS OF BONE TURNOVER MARKERS AND BONE MINERAL DENSITY IN ADULT DWELLERS OF HO CHI MINH CITY
Bone is an active tissue which is impacted by remodeling cycle with couple of resorptive and formative periods. These periods can be assessed by measurement of bone turnover markers.This study sought to examine an association between bone turnover markers and bone mineral density in a Vietnamese population.
The study was designed as a cross-sectional investigation, which involved 205 men and 372 women aged 18 to 87, who were randomly selected from various districts within Ho Chi Minh City. Fasting serum levels of P1NP, beta-CTX were measured by the electrochemiluminescence immunoassay (ECLIA) on the Elecsys 2010 automated analyzer (Roche). Bone mineral density (BMD) at lumbar spine (LS) and femoral neck (FN) was determined by DXA, Hologic. The association between P1NP, beta-CTX and bone mineral density was analyzed by a polynomial linear regression model.
While P1NP linearly decreased with advancing age in both men and women, beta-CTX changed with age by a complex pattern, which declined in men and women aged from 20-40, and then increased in women aged 40+ more than in men. In the linear regression model, there was a linear inverse relationship between beta-CTX and both FNBMD and LSBMD, while no association between P1NP and BMD was found. In the multiple linear regression model, age, weight and beta-CTX explained 40% and 53.5% of total variance in FNBMD and LSBMD, respectively. In which, beta-CTX accounted for 0.7% and 3.1% of changes of FNBMD and LSBMD, respectively.
In summary, these data suggest that bone turnover markers increase in postmenopausal women and elderly men. The resorption marker beta-CTX, not formation marker, was inversely associated with BMD at the femoral neck and lumbar spine. These results suggest that bone turnover markers can be used as a biochemical tool for the diagnosis of osteoporosis.

Download pdf

Trường hợp có thai đầu tiên từ phôi trữ lạnh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa sử dụng hệ thống đóng cryopette

Nguyễn Hữu Duy1 Nguyễn Ngọc Quỳnh1,3 Huỳnh Gia Bảo2,3 Đặng Quang Vinh1,4

Tóm tắt
Đông lạnh noãn/phôi cho bệnh nhân trong một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm đã trở thành một phần không thể thiếu ở các trung tâm IVF trên thế giới. Hiện nay trên thế giới có hai phương pháp đông lạnh đang được sử dụng là đông lạnh chậm và đông lạnh cực nhanh (phương pháp thủy tinh hóa). Tuy nhiên, sử dụng phương pháp thủy tinh hóa thay cho phương pháp đông lạnh chậm đang là xu hướng chủ yếu hiện nay do có nhiều ưu điểm hơn. Trong phương pháp thủy tinh hóa, các dụng cụ chứa noãn/phôi được chia làm hai nhóm: có tiếp xúc trực tiếp với ni-tơ lỏng (hệ thống hở) và không tiếp xúc trực tiếp với ni-tơ lỏng (hệ thống đóng). Hiệu quả đông lạnh của hai hệ thống là tương đương nhau. Tuy nhiên, do tính an toàn và hiệu quả, hệ thống đóng đang dần được sử dụng phổ biến trong các trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Mục đích của bài báo này nhằm báo cáo trường hợp có thai đầu tiên tại Việt Nam từ phôi trữ lạnh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa sử dụng hệ thống đóng Cryopette (Origio – Đan Mạch).
Từ khóa: đông lạnh chậm, thủy tinh hóa, hệ thống hở, hệ thống đóng, cryopette

Abstract
THE FIRST CASE OF PREGNANCY FROM CRYOPRESERVATION OF HUMAN EMBRYOS BY VITRIFICATION USING CRYOPETTE (CLOSED SYSTEM)
Oocytes/embryos cryopreservation for patients in an IVF cycle has become an essential part of IVF laboratories around the world. Nowadays, two basic techniques have been employed for the cryopreservation of oocytes/ embryos: controlled slow-rate freezing and vitrification. However, the use of vitrification instead of controlled slow-rate freezing is currently the main trend due to more advantages. The carrier systems that have been developed for the vitrification procedure are divided into two groups: direct contact with liquid nitrogen (open system) and indirect contact with liquid nitrogen (closed system). The cryopreservation’s effectiveness of the two system is equivalent. Nevertheless, because of the safety and effectiveness, closed system is gradually applied widely in many IVF centers in the world. The purpose of this paper is to report the first case of pregnancy in Vietnam from embryos cryopreserved by vitrification technique using closed system Cryopette (Origio – Denmark).
Keywords: slow-rate freezing, vitrification, open system, closed system, Cryopette

1IVF Vạn Hạnh, 2IVFAS, 3A.R.T. Consulting, 4Khoa Y, ĐHQG Tp HCM