Author Archives: admin

Bệnh thần kinh đái tháo đường

PGS, TS Nguyễn Thy Khuê
Bệnh thần kinh đái tháo đường là tổn thương dây thần kinh xảy ra do glucose huyết tăng cao trong máu. Glucose huyết tăng cao có thể làm tổn thương các dây thần kinh trên toàn cơ thể, tuy nhiên, ảnh hưởng thường rõ rệt nhất ở các dây thần kinh chi trên và chi dưới.


Bệnh thần kinh đái tháo đường thường được chia thành hai nhóm chính: bệnh lý thần kinh ngoại biên (ảnh hưởng đến các dây thần kinh ở ngoại biên cơ thể như thần kinh ở tay, chân, thần kinh sọ não) và bệnh lý thần kinh tự chủ (là thần kinh điều khiển hoạt động của các cơ quan như dạ dày, ruột, tim mạch, hệ tiết niệu).
Nguyên nhân nào đưa đến bệnh thần kinh ĐTĐ?
Tổn thương dây thần kinh và mạch máu là yếu tố chính đưa đến bệnh thần kinh ĐTĐ.
Glucose huyết tăng cao làm tổn thương bao thần kinh, giảm vận tốc dẫn truyền thần kinh. Cơ chế chính xác của tổn thương không được biết rõ. Ngoài ra các mạch máu nhỏ nuôi thần kinh bị tổn thương làm sự cung cấp oxygen và các chất dinh dưỡng cho dây thần kinh bị suy giảm.
Nhiều yếu tố khác cũng góp phần làm tổn thương dây thần kinh ở bệnh nhân đái tháo đường:
– Tình trạng viêm ở thần kinh do phản ứng tự miễn: xảy ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể tưởng lầm dây thần kinh là vật lạ với cơ thể nên tấn công dây thần kinh. (chú thích: hệ miễn dịch là hệ thống có nhiệm vụ chống lại sự xâm nhập của vật lạ vào cơ thể thí dụ các vi khuẩn, các hóa chất gây độc…)
– Yếu tố di truyền. – Hút thuốc lá, nghiện rượu: gây tổn thương thần kinh, mạch máu, đồng thời cũng tăng nguy cơ nhiễm trùng. Thuốc lá gây hẹp và cứng mạch máu, giảm lượng máu đến các chi, làm vết thương lâu lành và cũng góp phần vào tổn thương thần kinh.
– Thời gian bị bệnh đái tháo đường: bị bệnh càng lâu (nhất là khi glucose huyết không được ổn định tốt) càng tăng nguy cơ bị bệnh thần kinh. Bệnh thần kinh  ngoại vi thường gặp nhất ở các bệnh nhân đái tháo đường đã bị bệnh từ 25 năm trở lên.
– Bệnh thận mạn: khi bệnh nhân đái tháo đường bị bệnh thận mạn, các độc chất tăng trong máu có thể làm tổn thương thêm dây thần kinh.
Bệnh thần kinh ĐTĐ có thể biểu hiện như thế nào?
Triệu chứng của bệnh thần kinh đái tháo đường rất đa dạng, thay đổi tùy theo cơ quan bị tổn thương. Bệnh thường có 4 biểu hiện chính, bệnh nhân có thể chỉ có 1 loại triệu chứng hay nhiều loại triệu chứng. Thường triệu chứng rất mờ nhạt, do đó bệnh nhân có thể không quan tâm cho đến khi tổn thương nặng xuất hiện.


1-Bệnh thần kinh ngoại vi:
Đây là biểu hiện thường gặp nhất, chi dưới và bàn chân có triệu chứng đầu tiên, sau đó đến triệu chứng ở chi trên và bàn tay. Triệu chứng thường đối xứng cả 2 bên chi.
Bệnh nhân thường có cảm giác:
· Tê, giảm nhận biết cảm giác đau, nóng lạnh, đặc biệt ở bàn chân.
· Cảm giác châm chích, bỏng rát.
· Cảm giác đau buốt, thường tăng về đêm.
· Đau khi bước đi.
Đôi khi bệnh nhân có triệu chứng tăng cảm: dù chạm nhẹ bệnh nhân cũng cảm thấy đau rất nhiều.
Yếu cơ và đi lại khó khăn. Triệu chứng nặng: loét chân, nhiễm trùng, biến dạng bàn chân, đau ở xương khớp.
2-Bệnh thần kinh tự chủ
Thay đổi tùy cơ quan bị tổn thương:
Ở mắt: đồng tử mất phản xạ với ánh sáng, bóng tối
Ở hệ tiêu hóa: Dạ dày co thắt chậm lại nên bệnh nhân hay cảm thấy đầy bụng sau khi ăn. Buồn nôn, nôn mửa, mất cảm giác ngon miệng. Táo bón, hoặc tiêu chảy, nhất là tiêu chảy về đêm, hoặc táo bón xen lẫn với tiêu chảy.
Hệ tim mạch: Nhịp tim nhanh khi nghỉ, hạ áp tư thế (khi thay đổi tư thế từ nằm sang ngồi hoặc đứng, người bệnh cảm thấy chóng mặt, chóang váng, đôi khi ngất xỉu do huyết áp hạ thấp).
Do tổn thương thần kinh tự chủ, bệnh nhân mất cảm giác báo động khi bị hạ glucose huyết như cảm thấy đói, đổ mồ hôi, lo sợ, tim đập nhanh… do đó không kịp điều trị (thí dụ đi kiếm thức ăn, uống đường) và có thể đi thẳng vào hôn mê.
Hệ niệu, sinh dục: ứ đọng nước tiểu trong bàng quang (còn gọi là bàng quang thần kinh) lâu ngày dẫn đến nhiễm trùng đường tiểu. Bệnh nhân cũng có thể đi tiểu nhiều lần, khó nhịn tiểu. Rối loạn cương ở nam giới.
· Cảm giác nghẹn, nuốt khó.
· Khô âm đạo.
· Tăng hoặc giảm tiết mồ hôi.
· Rối loạn điều chỉnh thân nhiệt
3-Bệnh đơn thần kinh (còn gọi là bệnh thần kinh cục bộ)
Bệnh chỉ ảnh hưởng đến 1 dây thần kinh, có thể là thần kinh sọ não hoặc thần kinh ở thân mình, chi dưới. Triệu chứng thường xảy ra đột ngột, ở người lớn tuổi. Người bệnh có thể cảm thấy đau nhiều ở vùng tổn thương nhưng triệu chứng thường tự hết sau vài tuần hoặc vài tháng. Các triệu chứng thường gặp:
· Nhìn đôi, đau sau hốc mắt
· Liệt dây thần kinh mặt một bên, liệt thần kinh vận nhãn gây mắt lác (lé mắt)
· Đau ở cẳng chân, bàn chân. Đau mặt trước đùi.
· Đau vùng ngực, đau bụng.
Đôi khi có triệu chứng chèn ép gây hội chứng ống cổ tay: Cảm giác tê, châm chích ở ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn bàn tay). Cảm giác yếu khi cầm đồ vật và có thể đánh rơi đồ vật.
4-Bệnh đám rối-rễ thần kinh (teo cơ do đái tháo đường, bệnh thần kinh đùi, bệnh thần kinh cận thân )
Tổn thương các thần kinh ở đùi, hông, mông, cẳng chân. Thường gặp người lớn tuổi bị đái tháo đường type 2. Triệu chứng thường xảy ra ở 1 bên, đôi khi ở 2 bên. Thường triệu chứng sẽ giảm sau một thời gian tiến triển. Các triệu chứng có thể gặp là:
· Đau nhiều xuất hiện thình lình ở đùi, bụng.
· Cơ đùi yếu và teo.
· Khó khăn khi thay đổi tư thế từ ngồi sang đứng.
· Trướng bụng
· Giảm cân
Làm thế nào để phát hiện biến chứng thần kinh?
Bệnh thần kinh ĐTĐ được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng cơ năng thí dụ tê, nhức, chóng mặt khi thay đổi tư thế từ nằm sang đứng…

Các bác sĩ sẽ hỏi bệnh sử và khám bệnh nhân để phát hiện các bất thường.

Ở giai đoạn sớm, bệnh thần kinh ĐTĐ có thể không có triệu chứng.
Kiểm tra sức mạnh của cơ bắp, sức căng của cơ, phản xạ gân cơ, cảm nhận của bệnh nhân với cảm giác xúc giác, nóng lạnh, độ rung của âm thoa.
Bàn chân bệnh nhân cũng cần được kiểm tra mỗi năm một lần.
Một phương pháp đơn giản để phát hiện biến chứng thần kinh là bác sĩ sẽ dùng một sợi cước ngắn chạm vào 1 số điểm ở bàn chân của bệnh nhân, nếu bệnh nhân không nhận biết cảm giác va chạm từ sợi cước, bệnh nhân đã bắt đầu có tổn thương thần kinh.
Ngoài ra cũng cần tìm các biến dạng xương và khớp ở bàn chân, các vết chai, bóng nước, các vết nứt ở da.
Khi nghi ngờ có biến chứng thần kinh tự chủ, bác sĩ sẽ tìm sự thay đổi huyết áp khi bệnh nhân thay đổi tư thế, sự tiết mồ hôi của da.
Một số nghiệm pháp phức tạp hơn, chỉ thực hiện tại các cơ sở chuyên khoa:

– Đo vận tốc dẫn truyền thần kinh
– Đo điện cơ
– Định lượng cảm giác: khảo sát đáp ứng của sợi thần kinh với độ rung và sự thay đổi
về nhiệt độ.
Điều trị và thuốc
Không có thuốc điều trị khỏi bệnh thần kinh đái tháo đường. Điều trị chủ yếu tập
trung vào các vấn đề sau đây:
– Làm chậm diễn tiến bệnh
– Giảm đau
– Điều trị các biến chứng và phục hồi chức năng
1- Làm chậm diễn tiến bệnh
Kiểm soát glucose huyết tích cực có thể làm giảm nguy cơ diễn tiến của bệnh thần kinh ĐTĐ được khoảng 60%. Mục tiêu glucose huyết cần đạt
– Glucose huyết khi đói hoặc trước ăn: 70 – 130 mg/dL (3.9 – 7.2 mmol/L)
– Glucose huyế 2 giờ sau ăn: nhỏ hơn 180 mg/dL (10 mmol/L)
– HbA1c nhỏ hơn 7% ( HbA1c cho biết tình trạng kiểm soát glucose huyết trong vòng
8-12 tuần lễ trước khi đo, trị số ở người bình thường vào khoảng 4-6%) Các biện pháp sau đây cũng giúp giảm tổn thương thần kinh:
– Chăm sóc bàn chân kỹ để tránh các vết loét, không làm nặng thêm các biến dạng bàn chân đã có.

– Kiểm soát huyết áp
– Ăn uống điều độ, theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ
– Luyện tập thể lực phù hợp với sức khỏe
– Duy trì cân nặng thích hợp
– Ngưng hút thuốc
– Không uống rượu

     
2- Giảm đau
Một số thuốc giúp giảm đau nhưng không phải luôn luôn có tác dụng trên tất cả các bệnh nhân, ngoài ra các thuốc cũng có tác dụng phu. Các thuốc thường được xử dụng gồm có:
– Thuốc chống động kinh: gabapentin (Neurontin), pregabalin (Lyrica) và carbamazepine (Tegretol) dùng để chữa động kinh nhưng có tác dụng giảm đau do thần kinh ở một số bệnh nhân ĐTĐ. Tác dụng phụ là buồn ngủ, chóng mặt, xưng phù. Carbamazepine có thể gây dị ứng da kiểu hội chứng Stevens Johnson.
– Thuốc chống trầm cảm. Thuốc chông trầm cảm 3 vòng như amitriptyline, nortriptyline (Pamelor), desipramine (Norpramin) và imipramine (Tofranil), có thể giảm triệu chứng đau nhẹ và vừa. Tác dụng phụ của nhóm này gồm khô miệng, đổ mồ hôi, buồn ngủ, chóng mặt. Nhóm thuốc ngăn tái thu nhập serotonin và norepinephrine thí dụ duloxetine (Cymbalta) hiệu quả và ít tác dụng phụ hơn. Tác dụng phụ của duloxetine gồm buồn nôn, buồn ngủ, chóng mặt, ăn mất ngon, táo bón.
– Miếng dán có tẩm Lidocaine: dùng dán tại chỗ nào đau nặng nhất, thuốc có thể gây đỏ da.
– Thuốc giảm đau giống thuốc phiện: tramadol hoặc oxycodone không thể dùng lâu dài vì có thể gây nghiện ngoài các tác dụng phụ khác như buồn ngủ, nhức đầu, táo bón. Gần đây cơ quan quản lý thuốc và dược phẩm Mỹ cảnh báo tramadol có thể làm tăng nguy cơ động kinh và khuynh hướng tự sát ở người rối loạn cảm xúc.
Điều trị tạm thời
Một số phương pháp giúp giảm đau do nguyên nhân thần kinh:
– Capsaicin: kem thoa được chế từ ớt, khi thoa trên da có thể giảm đau ở một số người, tác dụng phụ có thể gặp là cảm giác bỏng rát và da bị kích thích.
– Alpha-lipoic acid. Chế phẩm có tính chống oxyd hóa được điều chế từ thực phẩm, có thể giảm đau hiệu quả ở bệnh thần kinh ĐTĐ, nhưng cần dùng sớm và lâu dài.
– Kích hoạt thần kinh bằng điện xuyên da: ngăn cản tín hiệu đau truyền từ da lên não. Tuy an toàn nhưng phương pháp này không có hiệu quả trên tất cả mọi người và tất cả các kiểu đau.
– Châm cứu: châm cứu giúp giảm đau, đôi khi cần vài buổi mới phát huy tác dụng.
Nếu thực hiện bởi chuyên gia có kinh nghiệm, châm cứu không có tác dụng phụ.
3- Điều trị các biến chứng và phục hồi chức năng
Các biến chứng của bệnh lý thần kinh ĐTĐ thường gây khó chịu, làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và cần được theo dõi điều trị ở các cơ sở chuyên khoa.
– Bàng quang thần kinh gây ứ đọng nước tiểu, tiểu không hết, nhiễm trùng tiểu.
– Rối loạn nhu động dạ dày
– Hạ áp tư thế
– Loét chân do ĐTĐ
– Rối loạn cương
Phòng ngừa bệnh thần kinh ĐTĐ
Phòng ngừa bệnh thần kinh ĐTĐ cũng chính là các phương pháp cần áp dụng để làm chậm diễn tiến bệnh đã trình bày ở trên, quan trọng nhất là kiểm soát tích cực glucose huyết, ăn uống điều độ và luyện tập thể lực đều đặn, ngưng hút thuốc.
Một phần quan trọng trong bệnh thần kinh ĐTĐ là chăm sóc bàn chân đúng cách. Các tổn thương thần kinh làm teo các cơ nhỏ ở bàn chân, bàn chân sẽ bị biến dạng, do đó áp lực tì đè sẽ thay đổi ở bàn chân tạo nên các vùng kém dinh dưỡng, các vết chai. Da khô do thiếu mồ hôi làm da dễ bị nứt. Khi bệnh nhân đi giày chật, hoặc đi chân đất (chân trần), dễ xuất hiện các vết thương ở bàn chân. Vi trùng sẽ xâm nhập qua các vết nứt da, gây nhiễm trùng vết thương. Các mô bị thiếu nuôi dưỡng do biến chứng mạch máu làm tắc mạch cũng góp phần làm chậm lành vết thương.


Các phương pháp sau đây giúp làm giảm nguy cơ loét chân ở bệnh nhân ĐTĐ:
– Bệnh nhân nên tự kiểm tra bàn chân mỗi ngày để phát hiện các vết thương nếu có, nếu không nhìn được lòng bàn chân có thể dùng tấm gương để soi lòng bàn chân.
– Khi phát hiện bàn chân có vết thương phải đến ngay bác sĩ chuyên khoa để được chỉ dẫn.
– Luôn giữ chân sạch sẽ, khô ráo. Mỗi tối trước khi đi ngủ nên rửa chân sạch và lau khô kể cả kẽ giữa các ngón chân.
– Không bôi thuốc mỡ vào giữa các ngón chân (kẽ chân)
– Khi cắt móng chân, không cắt sâu vào khóe móng, chỉ nên dùng dũa để dũa móng chân, móng tay.
– Không bao giờ đi chân đất (chân trần), không tự ý cắt vết chai, nếu tê nhức, cần đến ngay bác sĩ, không nên ngâm chân vào nước nóng hay hơ chân trên lửa.
– Khi mua giày dép, nên mua vào buổi chiều, và chọn giày vừa chân. Trước khi đi giày nên kiểm tra xem có vật lạ bên trong hay không (thí dụ đinh, kim..). Nếu bàn chân biến dạng, nên hỏi ý kiến bác sĩ để chọn giày dép thích hợp.
Tóm lại biến chứng thần kinh ĐTĐ tuy ít khi gây tử vong nhưng có thể ảnh hưởng nặng nề lên chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Tốt nhất không nên để xuất hiện biến chứng thần kinh bằng cách điều trị bệnh ĐTĐ tích cực ngay từ lúc mới chẩn đoán. Nếu đã có biến chứng, điều quan trọng vẫn là điều trị tích cực bệnh ĐTĐ. Do các triệu chứng tê nhức rất khó chịu nhưng bệnh nhân không thể mô tả cảm giác của họ nên bệnh nhân rất cần sự chăm sóc và hỗ trợ của gia đình.

BIẾN CHỨNG ĐÁY MẮT CỦA BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

PGS, TS Nguyễn Thy Khuê
Biến chứng đáy mắt của bệnh ĐTĐ cò gọi là bệnh võng mạc ĐTĐ, gây tổn thương các mạch máu nhỏ ở võng mạc. Võng mạc (còn gọi là đáy mắt) là vùng nhạy cảm với ánh sáng của nhãn cầu, nơi có các tế bào thần kinh nhận hình ảnh để đưa lên não xử lý.
Bệnh võng mạc ĐTĐ là nguyên nhân hàng đầu gây giảm thị lực hoặc mù lòa ở các nước phát triển. Tại Việt nam hiện nay bệnh võng mạc ĐTĐ cũng là nguyên nhân gây giảm thị lực hay gặp ở các phòng khám chuyên khoa mắt.
Những thay đổi ở võng mạc của bệnh ĐTĐ
Các tổn thương thường có ở cả 2 mắt.
Các tổn thương có thể chia làm 2 nhóm chính:
1- Tổn thương giai đoạn sớm còn gọi là tổn thương nền hoặc giai đoạn không tăng sinh: tên gọi này do chưa có sự xuất hiện của các mạch máu mới được tạo ra. Ở giai đoạn này thành mạch máu bị yếu, tạo ra các túi phình (còn gọi là mạch lựu trên thành mạch máu), các chất trong máu thấm qua thành mạch gây ra các đốm xuất tiết, máu cũng có thể thấm qua thành mạch gây ra các đốm xuất huyết.
Khi bệnh tiến triển nặng hơn nữa các mạch máu nhỏ bị tắc nghẽn, gây thiếu máu từng vùng ở võng mạc. Các mạch máu lớn hơn phình to và đường kính không đều (có chỗ phình to, có chỗ thu nhỏ). Các sợi thần kinh ở võng mạc cũng bị phù nề, vùng trung tâm của võng mạc (hoàng điểm) có khi cũng bị phù nề gây ra phù hoàng điểm.
2- Tổn thương giai đoạn nặng còn gọi là tổn thương tăng sinh Đây là giai đoạn nặng nhất của bệnh.

Do võng mạc bị thiếu máu và ảnh hưởng của tăng glucose huyết, các mạch máu mới được tạo ra (tăng sinh mạch máu). Các mạch máu mới tạo thường phát triển không đúng vị trí, thành mạch cũng rất yếu. Chúng có thể phát triển và chảy máu vào thể kính (thể kính là dịch nằm trong lòng nhãn cầu), các mô sẹo do tăng sinh mạch máu gây ra có thể làm bong võng mạc.
Nếu các mạch máu mới tạo này phát triển vào đường dẫn lưu của dịch đi ra khỏi nhãn cầu, áp lực có thể tăng lên trong nhãn cầu gây ra tăng nhãn áp (còn gọi là cườm nước)

Giai đoạn tăng sinh, xơ hóa, co kéo bong võng mạc.
Triệu chứng
Ở giai đoạn đầu bệnh nhân có thể không cảm thấy gì bất thường. Khi bệnh tiến triển hơn có thể gặp:
– Cảm giác có đốm đen (ruồi bay), hoặc các sợi màu đen ở trước mắt
– Nhìn mờ
– Hình ảnh dao động
– Thấy những vùng đen hoặc vùng trống trong cảnh vật
– Mù
– Mất cảm nhận màu sắc
Nguyên nhân của bệnh võng mạc ĐTĐ
Nguyên nhân chính là tăng glucose huyết. Tăng glucose huyết làm tổn thương mạch máu, có thể gây tắc mạch
Các yếu tố nguy cơ khác của tổn thương võng mạc:
· Thời gian bị bệnh ĐTĐ, bệnh càng lâu, càng có nguy cơ bị biến chứng ở đáy mắt.
· Glucose huyết không ổn định.
· Tăng huyết áp
· Tăng cholesterol máu
· Có thai
· Hút thuốc lá
Khi nào bệnh võng mạc ĐTĐ có thể gây mù hoặc giảm thị lực?
– Phù hoàng điểm
– Xuất huyết trong thể kính: nếu xuất huyết ít, bệnh nhân có thể thấy đốm đen trước mắt, nếu xuất huyết nhiều có thể gây mù cấp tính. Tuy nhiên, máu có thể sẽ tan sau vài tuần hoặc vài tháng, bệnh nhân có thể nhìn lại được
– Bong võng mạc, bong hoàn toàn sẽ gây mù vĩnh viễn
– Tăng nhãn áp: có thể gây mù nếu không điều trị kịp thời.
Làm thế nào để phòng ngừa bệnh võng mạc ĐTĐ:
Phát hiện sớm các tổn thương ở đáy mắt sẽ giúp xử trí kịp thời và ngăn ngừa tiến triển của biến chứng.
Ở giai đoạn sớm, bệnh võng mạc ĐTĐ không có triệu chứng do đó các bác sĩ sẽ tầm soát biến chứng này bằng cách:
Chỉ định khám đáy mắt mỗi năm ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 ngay lúc mới chẩn đoán và sau đó mỗi năm bởi bác sĩ chuyên khoa mắt.
Đối với bệnh nhân ĐTĐ type 1, chỉ định khám đáy mắt 5 năm sau khi chẩn đoán.
Nếu glucose huyết ổn định tốt, huyết áp không cao, không có bất thường mỡ máu, bác sĩ có thể quyết định khám lại đáy mắt sau 2-3 năm.
Nếu bệnh nhân ĐTĐ có thai, cần khám đáy mắt thường xuyên vì thai kỳ dễ làm tổn thương mạch máu ở đáy mắt.
Điều trị tốt nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ:
Ổn định glucose huyết tốt, HbA 1c <7%, luyện tập ít nhất 150 phút mỗi tuần, ăn uống điều độ, theo đúng chỉ dẫn, uống thuốc đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Điều trị tốt huyết áp, giảm muối trong khẩu phần.
Điều trị tốt rối loạn chuyển hóa lipid.
Ngưng hút thuốc.


Khám đáy mắt
Khám đáy mắt được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa mắt theo yêu cầu của bác sĩ chuyên khoa ĐTĐ. Để nhìn rõ đáy mắt, bác sĩ sẽ nhỏ 1 loại thuốc để làm dãn đồng tử (con ngươi), bệnh nhân sẽ nhìn mờ một thời gian do đó khi đi khám đáy mắt nên có người đi cùng và không nên tự lái xe.
Đôi khi bác sĩ chuyên khoa sẽ yêu cầu chụp mạch máu đáy mắt bằng thuốc phát huỳnh quang, sau đó nước tiểu bệnh nhân sẽ có màu vàng trong một thời gian ngắn.
Các phương pháp điều trị ở giai đoạn trễ
Các phương pháp này phải được điều trị bởi bác sĩ chuyên khoa mắt.
Nếu bệnh nhân bị phù hoàng điểm, điều trị bằng tia laser (còn gọi là quang đông) có thể hồi phục phần nào thị lực. Thông thường bệnh nhân có thể nhìn mờ 1 ngày sau khi điều trị quang đông nhưng sau đó sẽ nhìn rõ hơn, dù có thể không hoàn toàn hồi phục như lúc chưa có biến chứng. Tia laser cũng được dùng để đốt các mạch máu mọc không đúng chỗ, để giảm nguy cơ xuất huyết trong thể kính, tăng nhãn áp và bong võng mạc. Thường sau khi dùng quang đông, sẽ có những vùng sẹo rải rác ở võng mạc. Một ngày sau khi điều trị bệnh nhân có thể nhìn mờ, sau đó sẽ bớt nhưng thị trường mắt sẽ bị giảm ở vùng ngoại biên hoặc mắt sẽ nhìn kém hơn trong bóng tối.
Đục thể kính: khi có xuất huyết trong thể kính, các bác sĩ chuyên khoa sẽ đục một lỗ nhỏ ở mắt để lấy các sợi máu và thậm chí cả các mô sẹo mọc trồi vào thể kính, sau đó sẽ bơm ngược trở lại một ít dịch muối để duy trì hình dạng của nhãn cầu. Sau đó vẫn có thể cần điều trị tiếp bằng laser.
Tóm lại, bệnh võng mạc ĐTĐ có thể đưa đến những hậu quả rất nghiêm trọng. Kiểm soát tốt glucose huyết và huyết áp là những phương pháp hiệu quả nhất để phòng ngừa biến chứng này.

Hình chụp đáy mắt bình thường


Hình chụp đáy mắt với tổn thương nền (giai đoạn không tăng
sinh):

Sẹo ở đáy mắt (võng mạc) sau khi điều trị

Biến chứng mạch máu lớn của bệnh đái tháo đường

PGS, TS Nguyễn Thy Khuê
Biến chứng mạch máu lớn của bệnh ĐTĐ chính là tình trạng xơ vữa động mạch kèm với các hậu quả của nó.
Xơ vữa động mạch được cho là kết hợp tình trạng viêm và tổn thương ở lớp nội mạc mạch máu, các tiểu phân mỡ xấu LDL bị oxid hóa sẽ thấm nhập vào thành mạch máu, kích hoạt sự thâm nhập tế bào viêm và tăng sinh lớp cơ trơn ở thành mạch, tích tụ collagen, tạo nên mảng xơ vữa giàu lipid với phần trên là các sợi fibrin. Mối liên quan giữa bệnh ĐTĐ và xơ vữa động mạch chưa được hoàn toàn hiểu rõ. ĐTĐ làm gia tăng tính kết dính ở thành mạch máu, các tiểu cầu dễ tích tụ lại ở vùng mạch máu đã bị tổn thương, các sợi fibrin cũng tồn tại lâu hơn ở bệnh ĐTĐ, do đó người ĐTĐ có nguy cơ bị xơ vữa động mạch nhiều hơn người không bị ĐTĐ, và bệnh nhân ĐTĐ bị xơ vữa động mạch ở lứa tuổi sớm hơn so với người không bị ĐTĐ. 

Bệnh nhân ĐTĐ type 1 lúc mới chẩn đoán, chưa có các biến chứng mạn tính. Bệnh nhân ĐTĐ type 2 thường có các rối loạn chuyển hóa khác cùng với tăng glucose huyết như béo bụng, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu. Các tình trạng đều góp phần gây xơ vữa động mạch. Tuy nhiên bản thân bệnh ĐTĐ cũng là nguy cơ của xơ vữa động mạch. Phụ nữ bị ĐTĐ có nguy cơ bị bệnh mạch vành cao hơn nam giới.
Nguyên nhân tử vong hàng đầu ở bệnh nhân ĐTĐ là do bệnh tim mạch và đây cũng là nguyên nhân gây tốn kém nhiều nhất.
Xơ vữa động mạch có thể đưa đến các hậu quả:
– Ở mạch máu não gây đột quị do xuất huyết não, nhũn não. Đôi khi bệnh nhân có cơn
thoáng thiếu máu não.

– Ở tim gây bệnh cơ tim thiếu máu, cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim
– Ở mạch máu ngoại vi gây tắc mạch chi, hoại tử chi.


Ngoài ra xơ vữa động mạch cũng góp phần gây rối loạn cương, loét chân. Một số các biến chứng khác hiếm gặp hơn: phình động mạch chủ, tắc mạch mạc treo…
Nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ có thể không đau, khi chụp hình mạch vành, tổn thương mạch vành của bệnh nhân ĐTĐ thường ở nhiều chỗ và nhiều nhánh.
Người ĐTĐ tăng nguy cơ bị đột quị (tai biến mạch máu não) từ 150-400%. Nguy cơ sa sút trí tuệ liên quan với đột quị, tái phát và tử vong do đột quị ở người ĐTĐ đều cao hơn người không ĐTĐ.
Bệnh mạch máu ngoại vi ở bệnh nhân ĐTĐ có thể gây hoại tử chi, nhất là khi bệnh nhân nghiện thuốc lá nặng. Hoại tử chi thường gặp ở các ngón chân. Ngón chân bệnh nhân thâm đen (thường gọi là hoại tử khô vì không có nhiễm trùng), nếu không điều trị kịp thời có thể mất ngón chân.
Làm sao phát hiện tình trạng xơ vữa động mạch và nguy cơ tim mạch?
Xơ vữa động mạch xảy ra âm thầm, thường chỉ có triệu chứng khi có tổn thương nặng ở các cơ quan. Khi khám bệnh, bác sĩ có thể phát hiện thấy các mạch máu của bệnh nhân cứng (thí dụ dấu giựt dây chuông ở khuỷu tay), hoặc tắc mạch ngoại vi (bắt mạch thấy mạch yếu hoặc mất mạch). Hiện nay siêu âm có thể phát hiện các mảng xơ vữa ở các động mạch. Soi đáy mắt cũng có thể thấy hình ảnh gián tiếp của các động mạch nhỏ bị xơ cứng. Thông thường các bác sĩ sẽ chỉ định làm điện tim để phát hiện các hậu quả của bệnh động mạch vành, nếu có dấu bất thường và cần tìm hiểu thêm sẽ đề nghị bệnh nhân làm nghiệm pháp gắng sức. Động mạch bình thường Xơ vữa động mạch nhẹ Xơ vữa động mạch nghiêm trọng

“Nghiên cứu tiến cứu về ĐTĐ tại Vương quốc Anh” đã xác định được nếu bệnh nhân đái tháo đường có các yếu tố nguy cơ sau đây thì dễ bị các biến cố tim mạch như cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim tử vong và không tử vong: đó là tăng LDL cholesterol (cholesterol xấu, có khuynh hướng làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch), giảm HDL cholesterol (cholesterol tốt, giúp giảm nguy cơ xơ vữa động mạch), tăng huyết áp nhất là huyết áp tâm thu, tăng glucose huyết, hút thuốc lá. Đây là các yếu tố có thể cải thiện được bằng thuốc hoặc thay đổi hành vi (ngưng hút thuốc).
Những dấu hiệu lâm sàng nào báo động có biến cố tim mạch?
Như đã nói ở trên, nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ có thể không có triệu chứng đau điển hình, bệnh nhân cần đến khám bệnh khi có một số triệu chứng gợi ý: mệt, khó thở khi gắng sức (leo thang), chóng mặt, yếu một phần cơ thể, không cầm được các vật dụng hàng ngày (thí dụ đánh rơi bát, đũa khi ăn cơm) …Bệnh nhân bị giảm lượng máu đến chân có thể đau bắp chân khi đi bộ một quãng đường, ngồi nghỉ bớt đau, sau đó đi lại một quãng đường tương tự lại đau trở lại. Biến cố tim mạch gây tử vong cao, do đó khi cảm thấy có triệu chứng bất thường bệnh nhân nên đến khám ngay bác sĩ chuyên khoa.
Làm thế nào để phòng ngừa các biến cố tim mạch?
Duy trì nếp sống lành mạnh, ngưng hút thuốc, không uống rượu hoặc uống rượu điều độ, ngủ đủ giấc.


Ăn đúng giờ, đúng lượng thức ăn cần thiết theo chỉ dẫn, luyện tập thể lực thường xuyên. Dùng thuốc theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ, khám bệnh theo đúng lịch hẹn để đạt các mục tiêu điều trị đã đề cập trong bài “Tổng quan về biến chứng của bệnh đái tháo đường”.

 

Trao nhà tình thương

Các bạn thân mến!

Lại thêm một tin vui trong công tác xã hội từ thiện: Hưởng ứng Chương trình vì người nghèo do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh phát động, sáng ngày 24.02.2016, thay mặt Hội Y học TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi cùng các vị đại diện Ban vận động vì người nghèo TP. Hồ Chí Minh và đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh đến thực hiện lễ bàn giao căn nhà tình thương cho bà Nguyễn Thị Bích Phượng, cư ngụ tại nhà số 6D3/1 tổ 5, ấp 6, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh. Căn nhà có tổng giá trị là 60.000.000 đồng, trong đó Hội Y học TP. Hồ Chí Minh tài trợ 40.000.000 đồng. Số tiền này do Liên Chi hội Ung thư và Liên chi hội Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh đóng góp.

Chúng tôi hoan nghênh sự đóng góp đầy ý nghĩa cộng đồng của hai Liên Chi Hội.

Nhân đây chúng tôi kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong ngoài Hội Y học, đang sinh sống trong nước ngoài nước hãy hướng về Chương trình vì người nghèo mà đóng góp hiện vật và hiện kim cho chúng tôi, để tổ chức thực hiện hai (2) chỉ tiêu Chương trình vì người nghèo năm 2016 là:
1. Hai (2) căn nhà tình thương: 50.000.000 đồng/căn x 2 căn = 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng)
2. Một trăm (100) suất học bổng: 1.000.000 đồng/suất x 100 suất = 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng)

Mọi thông tin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ email: huynhliendoan@gmail.com.

Trân trọng cảm ơn các bạn.

BS. Huỳnh Liên Đoàn
Phó chủ tịch Hội Y học TP.HCM


Thư mời tham dự hội nghị khoa học của Hội Y học TP. Hồ Chí Minh ngày 12.7.2015

Hội Y học TP. Hồ Chí Minh tổ chức HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHUYÊN ĐỀ NỘI KHOA
Từ 8 giờ đến 15 giờ ngày chủ nhật 12.7.2015
Tại Lầu 7, Windsor Plaza, số 18 An Dương Vương, quận 5, TP.HCM.

Các báo cáo khoa học gồm có:
1. Lựa chọn thuốc điều trị cho bệnh nhân đái tháo đường týp 2, an toàn tim mạch của các thuốc viên. GS. Tim Davis, Đại học Western Australia
2. Bệnh tim thiếu máu ở bệnh nhân đái tháo đường – kẻ giết người thầm lặng. PGS.TS. Võ Thành Nhân, Đại học Y Dược TP.HCM.
3. Xây dựng khẩu phần dinh dưỡng cho bệnh nhân đái tháo đường dựa trên ca lâm sàng. BS.CK1. Nguyễn Thị Ánh Vân, Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM.
4. Bảo vệ thận cho bệnh nhân đái tháo đường dựa trên y học chứng cứ. ThS.BS. Trần Thế Trung, Bộ môn Nội tiết, Đại học Y Dược TP.HCM.
5. Chỉ định điều trị insulin và theo dõi hiệu quả điều trị. ThS.BS. Trần Viết Thắng, Bộ môn Nội tiết, Đại học Y Dược TP.HCM.
6. Chẩn đoán sớm xơ gan. TS.BS. Phạm Thị Thu Thủy, Trung tâm Y tế Hòa Hảo Medic TP.HCM.
7. Quản lý lâu dài bệnh nhân xơ gan. PGS.TS. Bùi Hữu Hoàng, Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP.HCM.

Người tham dự hội nghị được cấp giấy chứng nhận. Hội nghị phí là 100.000 đồng/người bao gồm ăn trưa. Đăng ký tham dự xin liên lạc với
      chị Ngô Kim Thu
      DĐ: 0903 869 129 email: hoiyhoctp.hcm@gmail.com
      trước ngày 04.7.2015.

Trân trọng kính mời các bác sĩ tham dự hội nghị.
 
Chủ tịch Hội Y học TP.HCM.
BS. Trương Thị Xuân Liễu
 

HỌP MẶT HỘI Y HỌC NHÂN 40 NĂM NGÀY THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Ngày 12 tháng 7 năm 2015, Hội Y học TPHCM tổ chức họp mặt thân mật nhân 40 năm Ngày Thống nhất đất nước tại Windsor Plaza.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH

Toàn thể


Từ trái sang phải: PGS. Võ Văn Thành, BS. Trương Thị Xuân Liễu, PGS. Trần Thị Trung Chiến, GS. Phạm Mạnh Hùng, BS. Đoàn Thúy Ba, GS. Nguyễn Khánh Dư, GS. Nguyễn Ngọc Giao, BS. Trần Đông A, BS. Đỗ Hồng Ngọc


Từ trái sang phải: BS. Trương Thị Xuân Liễu, BS. Hoàng Thị Lũy, BS. Võ Thị Lan, BS. Huỳnh Anh Lan


Từ trái sang phải: GS. Nguyễn Sào Trung, BS. Trần Thanh Xuân, BS. Huỳnh Liên Đoàn, cô Trần Ngọc Thúy, BS. Trương Thị Xuân Liễu, BS. Huỳnh Anh Lan, BS. Lê Anh Bá, BS. Lê Thiện Anh Tuấn, BS. Đỗ Đình Hùng, DS. Huỳnh Văn Nhiệm, cô Ngô Kim Thu, cô Đoàn Thu Trang

Văn phòng Hội Y học TPHCM
15.7.2015

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU HỘI Y HỌC TP.HCM, NHIỆM KỲ VIII 2014-2019

Ngày 27 tháng 9 năm 2014, Hội Y học TP HCM tổ chức Đại hội Đại biểu Nhiệm kỳ VIII tại Trung tâm Hội nghị 272 Võ Thị Sáu, Q3. Nhân dịp Đại hội lần này, Hội Y học TP. Hồ Chí Minh kỷ niệm 35 năm thành lập Hội (1979 – 2014) và long trọng tổ chức lễ đón nhận các hình thức khen thưởng của Nhà nước trao tặng cho các tập thể và cá nhận của Hội Y học đã có nhiều đóng góp trong hoạt động Hội trong suốt thời gian qua và đặc biệt trong trong nhiệm kỳ VII (2009 – 2014). Buổi lễ được vinh dự đón tiếp Đồng chí Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, Đ/C Tất Thành Cang, Phó Chụ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP HCM, GS TSKH Phạm Mạnh Hùng, Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam, GS Nguyễn Ngọc Giao, Chủ tịch Liên Hiệp các Hội khoa học kỹ thuật TP HCM, rất nhiều đại biểu đến từ các sở ngành TP HCM, lãnh đạo các cơ quan Y tế trung ương và TP HCM và 172 đại biểu đến dự Đại hội.


 

 

Hội Y học TP. Hồ Chí Minh là một hội được thành lập rất sớm sau ngày giải phóng, quy tụ tất cả các trí thức từ nhiều nguồn đào tạo, các cán bộ y tế làm việc tại các cơ quan thuộc trung ương và thành phố, kể cả các bác sĩ  hành nghề y tế tư nhân. Từ ngày thành lập đến nay, Hội Y học TP. Hồ Chí Minh đã phát triển thành một hội lớn nhất trong Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật TP HCM, với 63 hội chuyên khoa và hơn 23 ngàn hội viên. Trong 35 năm qua Hội hoạt động rất hiệu quả nhờ tập hợp được lực lượng trí thức làm việc trong lĩnh vực y tế TP HCM, đáp ứng  được nhu cầu cập nhật kiến thức, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn của hội viên và động viên hội viên nâng cao y đức trong hành nghề. Đặc biệt trong nhiệm kỳ VII, dưới sự lãnh đạo của VS TS Dương Quang Trung, cố Chủ tịch Hội, Hội Y học đã có nhiều thành tích trong các mặt hoạt động hội như tổ chức chính trị, khoa học đào tạo, thông tin báo chí, tư vấn phản biện và xã hội từ thiện. Điều đáng ghi nhận trong nhiệm kỳ này là HYH đã tổ chức biên tập và xuất bản sách về 3 bậc thầy trong ngành Y tế, đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp y tế, giúp nêu cao tấm gương về y đức trong ngành Y: “BS Trần Hữu Nghiệp: Thầy thuốc, nhà giáo, nhà văn”, “Nhà giáo Nhân dân GS Võ Thế Quang: nhân cách một con người”, “AHLĐ TTND VS TS Dương Quang Trung: Nhân tâm và y nghiệp”.

Đại hội Đại biểu khóa VIII đã tổ chức hội nghị trù bị vào ngày 24 tháng 9, 2014 bầu ra Ban Chấp hành hội cho nhiệm kỳ VIII (2014- 2019) với 71 ủy viên trong đó Ban Thường vụ có 23 ủy viên. BS Trương Thị Xuân Liễu, nguyên Giám đốc Sở Y tế TP HCM được tín nhiệm làm Chủ tịch Hội Y học trong nhiệm kỳ VIII. Đại hội đại biểu đã thông qua điều lệ sửa đổi bổ sung của HYH và phương hướng hoạt động hội cho nhiệm kỳ VIII đặt nền móng cho sự phát triển Hội ngày càng lớn mạnh góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân TP HCM. Bên cạnh Đại hội Đại biểu, vào ngày 26 tháng 9 – 2014, Hội Y học và các hội chuyên khoa đã tổ chức hai hội thảo chuyên đề vế Phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viên liên quan đến thủ thuật xâm lấn và Cập nhật một số bệnh nội khoa thường gắp tại KS Windsor Plaza với hơn 450 người tham dự. 

Một số hình ảnh tại Đại hội


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cùng một số hình ảnh khác tại Đại hội trù bị ngày 24 tháng 09 năm 2014


 

 

 

 

 

 

 

 

Thời Sự Y Học tháng 8/2014

LỄ GIỚI THIỆU SÁCH “THẦY THUỐC NHÂN DÂN VS.TS.BS DƯƠNG QUANG TRUNG: NHÂN TÂM VÀ Y NGHIỆP”

Lễ giới thiệu sách “Thầy thuốc Nhân dân VS TS BS Dương Quang Trung: Nhân tâm và y nghiệp” tưởng niệm một năm ngày mất của VS TS Dương Quang Trung

Để tưởng niệm một năm ngày mất của VS TS BS Dương Quang Trung (22/6/2013), Hội Y học TP HCM đã tổ chức tập hợp tư liệu và biên soạn quyển sách: “Thầy thuốc Nhân dân VS TS BS Dương Quang Trung Nhân tâm & Y nghiệp”. Lễ giới thiệu sách được tổ chức trang trọng tại Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch vào sáng thứ bảy ngày 21/6/2014 với sự hiện diện của các đổng chí lãnh đạo Thành ủy, UBND TP HĐNDTP, MTQ TP, Tổng Hội Y học VN,LH cac Hội KHKT TP, đại diện các ban ngành đoàn thễ và hơn 300 khách là các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình của VS TS Dương Quang Trung.  

Buổi lễ tưởng niệm thật cảm động này diễn ra tại hội trường lớn của Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, mà tiền thân là Trung tâm Đào tạo và bội dưỡng cán bộ y tế TP HCM do VS TS Dương Quang Trung là người sáng lập vào năm 1989. Bài phát biểu giới thiệu sách của Đ/C Lê Thanh Hải, lời ngỏ của BS Trương Thị Xuân Liễu đại diện cho Hội đồng biên tập, lời cám ơn của BS.Võ Thị Lan, phu nhân của VS TS Dương Quang Trung, những bài phát biểu của đại diện các tổ chức đến dự buổi lễ cũng như các tiết mục văn nghệ của các thầy cô và sinh viên của trường đã nói lên tình cảm sâu đậm mà tất cả mọi người dự lễ dành cho BS Trung.

Sách giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của VS.TS. Dương Quang Trung dưới nhan đề “Thầy thuốc Nhân dân VS.TS.BS. Dương Quang Trung: Nhân tâm và Y nghiệp” nhằm tôn vinh Anh hùng lao động, Thầy thuốc Nhân dân BS. Dương Quang trung, một trí thức miền Nam tiêu biểu, người thầy của nhiều thế hệ thầy thuốc, người lãnh đạo đã có nhiều công lao đóng góp cho ngành y tế TP HCM trong 40 năm qua. 

Quyển sách ra đời nhờ sự ủng hộ, động viên của các cấp lãnh đạo Thành phố và nhờ sự đóng góp tư liệu rất nhiệt tình từ phía gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, và các nhà báo. Những tư liệu phong phú này đã được Hội đồng biên tập sắp xếp lại thành6phần của quyển sách. Phần một phác họa cuộc đời của người chiến sĩ tham gia cách mạng từ rất sớm, người du học sinh vừa theo học ngành y ở Pháp vừa hoạt động trong phong trào sinh viên yêu nước, người thầy thuốc đã theo tiếng gọi của tổ quốc trở về thủ đô Hà Nội rồi xông pha chiến trường miền Nam. Kế đến là những năm lãnh đạo ngành y tế Tp. Hồ Chí Minh với biết bao đóng góp để phát triển mạng lưới y tế cộng đồng, hệ thống khám chữa bệnh và đào tạo nhân lực cho thành phố. Phần hai do các đồng nghiệp và cộng sự của BS Trung kể lại về những thành tích, những công việc cụ thể, những kỷ niệm khó quên khi làm việc chung với BS Trung. Phần ba là những bài do các nhà báo đã viết về BS Trung, một người thầy thuốc đầu đàn với những quan điểm cởi mở, những trăn trở và những suy nghĩ sâu sắc về các vấn đề thời sự của ngành y tế. Ở Phần bốn, bạn bè, đồng nghiệp và người thân viết về BS Trung để bày tỏ những tình cảm quý trọng và yêu mến dành cho BS Trung. Phần năm là một số bài viết và bài phát biểu của chính BS Trung trong dịp những sự kiện quan trọng của ngành y tế thành phố. Phần sáu ghi lại những tình cảm thương tiếc và hụt hẫng trước sự ra đi đột ngột của BS Trung. Cuối cùng là những trang hình ảnh sinh động giúp mọi người “nhìn lại” BS Trung trong cuộc sống và công việc. Hơn 450 trang chữ và hình ảnh của tập sách đã vẽ nên bức tranh cuộc đời và phần nào lột tả được nhân cách cao quý của BS Trung.

Qua quyển sách, có thể thấy VS TS BS Dương Quang Trung đã sống một cuộc đời trọn vẹn của một người chiến sĩ cách mạng xứng đáng với danh hiệu Anh Hùng Lao Động, của một người thầy thuốc luôn nêu cao y nghiệp xứng đáng với danh hiệu Thầy thuốc Nhân Dân. Một cuộc đời đáng để cho mọi người yêu mến và khâm phục xứng đáng là một tấm gương của ngành y tế Việt Nam.

Một số hình ảnh tại buổi lễ



Đồng chí Lê Thanh Hải

BS. Trương Thị Xuân Liễu



GS.TSKH. Phạm Mạnh Hùng










Chương trình văn nghệ


Chụp ảnh lưu niệm