Author Archives: admin

KỶ YẾU 40 NĂM HỘI Y HỌC TP. HỒ CHÍ MINH 1979-2019

Giới thiệu về Hội Y Học TP.HCM

Lời giới thiệu

Lãnh đạo Hội Y Học qua các nhiệm kỳ

Hội Y Học TP.HCM – tầm nhìn và hoạt động

Bốn mươi năm Hội Y Học TP.HCM (1979 – 2019). Trương Thị Xuân Liễu, Huỳnh Anh Lan, Huỳnh Liên Đoàn, Nguyễn Sào Trung, Nguyễn Thy Khuê, Trần Thanh Xuân

Hai mươi năm phấn đấu xây dựng Hội Y Dược Học Thành Phố – trung tâm tập hợp đoàn kết và phát huy khả năng giới trí thức trong ngành Y Dược Thành Phố (1979 – 1999). TS. Nguyễn Duy Cương

15 năm hoạt động của Hội Y Dược Học TP.HCM (1979-1994). VS.TS. Dương Quang Trung

Quá trình hoạt động của Hội Y Học TP.HCM 26 NĂM QUA 1979–2005. VS.TS. Dương Quang Trung

Quá trình hoạt động khoa học kỹ thuật của Hội Y Dược Học TP.HCM 20 năm qua (1979-1999). PGS. Võ Thành Phụng

Nhiệm vụ thông tin: Những thăng trầm và hoài bão, nhân 20 năm Hội Y Học TP.HCM. GS. Ngô Gia Hy

Tạp chí Thời Sự Y Học: Con đường phía trước. PGS.TS. Vũ Thị Nhung

Nhận xét về tổ chức của Hội Y Học TP.HCM sau gần 30 năm xây dựng và phát triển (1979 – 2008). VS.TS. Dương Quang Trung

Dấu ấn một người thầy. BS. Huỳnh Liên Đoàn

Tiến sĩ Nguyễn Duy Cương. Nguyễn Hương Giang

Chú Tư Trung và Hội Y Học TP.HCM. Trương Thị Xuân Liễu, Nguyễn Sào Trung, Nguyễn Thy Khuê, Huỳnh Liên Đoàn, Huỳnh Anh Lan

Kể về BS Trương Thị Xuân Liễu. Trầm Hương

GS.VS. Dương Quang Trung với sự phát triển ngành thần kinh TP.HCM. GS.TS. Lê Văn Thành

Lịch sử phát triển các hội chuyên khoa

Vai trò của chương trình hợp tác Việt-Pháp trong ngành Chẩn Đoán Hình Ảnh Việt Nam. BS. Nguyễn Quý Khoáng

Lịch sử Hội Phụ Sản TP.HCM (1986 – 2019). PGS.TS.BS. Vũ Thị Nhung

Hội Cột Sống TP.HCM (2000-2020). PGS.TS.BS. Võ Văn Thành

Hội Da Liễu TP.HCM: Quá trình 40 năm hình thành và hoạt động. PGS.TS.BS. Nguyễn Tất Thắng

Giới thiệu Hội Hô Hấp TP.HCM. PGS.TS.BS. Trần Văn Ngọc

Hội Loãng xương TP.HCM.

Hội Răng Hàm Mặt TP.HCM.

10 năm hình thành và phát triển Hội Cấy Ghép Nha Khoa TP.HCM (2009 – 2019). BS. Võ Văn Tự Hiến

Hội Chỉnh Hình Răng Mặt TP.HCM.

Vài nét về Hội Tim Mạch Học TP.HCM.

Hội Y học Dự phòng TP.HCM. TS.BS. Huỳnh Tấn Tiến

Hội Hồi sức Cấp cứu TP.HCM: hình thành và phát triển.

 

Hội Đái Tháo Đường Và Nội Tiết TP.HCM. PGS.TS Nguyễn Thy Khuê

Lịch sử Hội Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn TP.HCM (2008 – 2019).

Hội Nhãn Khoa TP.HCM. PGS.TS. Nguyễn Hữu Chức

Hội Hành Nghề Y Tư Nhân TP.HCM.

Hội Dinh Dưỡng Thực Phẩm TP.HCM.

Hội Hen – Dị Ứng – Miễn Dịch Lâm Sàng TP.HCM: 5 năm – một chặng đường hình thành và phát triển. PGS.TS.BS. Lê Thị Tuyết Lan

Hội Tai Mũi Họng TP.HCM hành trình 35 năm hình thành và phát triển.

Ngoại nhi thành phố Hồ Chí Minh: Một chặng đường phát triển.

Hội nội soi cơ-xương-khớp TP.HCM.

Danh bạ các hội chuyên khoa thuộc Hội Y Học TP.HCM.

Hội Y Học TP.HCM – nhiệm kỳ VIII (2014-2019): các ban chức năng.

 

THỜI SỰ Y HỌC tháng 9/2019

Cập nhật về mối liên quan giữa bệnh nha chu và bệnh toàn thân. Nguyễn Bích Vân, Huỳnh Anh Lan

Implant nha khoa dựa trên tích hợp xương: 50 năm thành tựu, xu hướng đương đại và tương lai. Trần Hùng Lâm

Những thành tựu chính trong lĩnh vực thấp khớp học hai mươi năm đầu thế kỷ 21. Lê Anh Thư

Phục hồi chức năng hô hấp cho bệnh nhân hô hấp mạn tính. Đỗ Thị Tường Oanh

Vai trò nhóm thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển sodium – glucose 2 ở đái tháo đường típ 2: ưu điểm và hạn chế. Võ Tuấn Khoa, Nguyễn Thy Khuê

Lạm dụng thuốc corticosteroid và suy thượng thận do corticosteroid. Trần Viết Thắng

Hình ảnh X quang cắt lớp vi tính của u ruột non. Lê Duy Mai Huyên, Võ Tấn Đức

Nghiên cứu hiệu quả điều trị đứt dây chằng chéo sau bằng gân hamstring tự thân qua nội soi tại Bệnh viện 30/4. Lương Trung Hiếu

Cộng hưởng từ u trung thất trước: báo cáo hàng loạt ca. Phan Công Chiến, Trần Thị Mai Thùy, Võ Tấn Đức

Quan hệ giữa các yếu tố trong không khí an toàn cho người bệnh tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Võ Đức Chiến, Lê Trúc Phương, Lâm Vạn Phong, Vương Thị Thanh Nhàn, Lương Công Minh, Tất Mỹ Hoa, Đinh Thị Hồng Nhung, Nguyễn Quang Vinh

Những suy nghĩa và mong đợi về môi trường làm việc của nhân viên bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong công việc hàng ngày. Võ Đức Chiến, Lâm Vạn Phong, Vương Thị Thanh Nhàn, Lương Công Minh, Đinh Thị Hồng Nhung, Nguyễn Quang Vinh

Khảo sát thực trạng tuân thủ các quy trình phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM năm 2018. Trần Thị Thu Trang, Nguyễn Tấn Thuận, Nguyễn Phú Ngọc Hân, Nguyễn Thị Uyên

Huyết khối động mạch thận trên bệnh nhân rung nhĩ. Trần Nguyễn An Huy, Nguyễn Quốc Việt, Nguyễn Minh Nhựt

 

LỄ KỶ NIỆM 40 NĂM THÀNH LẬP HỘI & ĐẠI HỘI HỘI Y HỌC TP.HCM IX 2019-2024

Hội Y Học TP.HCM tổ chức Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Hội và Đại hội Hội Y Học TP.HCM lần thứ IX nhiệm kỳ 2019-2024 ngày 28 tháng 9 năm 2019 tại Trung tâm hội nghị 272 số 272 Võ Thị Sáu quận 3.

Một số hình ảnh:

 

Đại hội trù bị
Đại hội trù bị
Đón tiếp đại biểu Đại hội trù bị
Khách mời Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Hội
Khách mời Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Hội
PGS. Trần Thị Trung Chiến, PGS. Nguyễn Thị Xuyên, BS. Trương Thị Xuân Liễu, PGS. Nguyễn Thị Ngọc Dung
Nhận bằng khen của UBND TP.HCM
Nhận bằng khen của UBND TP.HCM
Nhận bằng khen của Liên Hiệp các Hội Khoa Học – Kỹ Thuật Việt Nam
Nhận bằng khen của Tổng Hội Y Học Việt Nam
Đại hội biểu quyết
Ban chấp hành khóa IX nhiệm kỳ 2019-2024
Ban chấp hành IX và khách mời
BS. Trương Thị Xuân Liễu, Chủ tịch Hội khóa VIII và PGS. Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội khóa IX
PGS. Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội khóa IX

Kỷ yếu 40 năm thành lập Hội Y Học TP. Hồ Chí Minh 1979-2019

Hội Y Học thành phố Hồ Chí Minh: Lực lượng trí thức y khoa đóng góp cho sự phát triển thành phố và cả nước

KHPTO – Trong 5 năm qua (2014 – 2018), Hội Y Học không ngừng phát triển, đã kết nạp thêm 8 hội chuyên khoa với 919 hội viên, đưa số hội chuyên khoa từ 60 hội với 23.565 hội viên lên 70 hội với 25.614 hội viên, chiếm 1/3 số lượng hội viên thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật TP.HCM. Hội đã thu hút tập hợp được đông đảo lực lượng trí thức y khoa, góp phần vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân tại TP.HCM và khu vực phía Nam.

Nhờ có nhiều chính sách để thu hút và phát triển hội viên mới, nay hội có đến 70 hội chuyên khoa. Các hội luôn tìm những phương thức hoạt động phong phú và có hiệu quả. Các loại hình sinh hoạt của hội không chỉ giúp các hội viên trao đổi, học tập kinh nghiệm, nâng cao kiến thức; mà còn tạo sự gắn kết giữa các hội và hội viên, giữa các hội viên với nhau, thu hút và tạo ra sinh khí trong hoạt động khoa học của các hội chuyên khoa. Có một số hội tổ chức đến trên 20 lần/năm, như hội tim mạch, hô hấp, đái tháo đường – nội tiết, phụ sản…

Hội phát hành nhiều kênh truyền tải thông tin y học và phổ biến kiến thức y khoa như tạp chí Thời Sự Y Học (phát hành mỗi năm 7 số, tổng số 110.000 bản), trang web Hội – các nội dung khoa học được củng cố dần với những bài viết được đăng tải trên chuyên mục y học thường thức, y học chuyên sâu. Bên cạnh đó, Hội được Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật TP.HCM tài trợ, đã phát hành 1.000 bản của tập thơ Cây rau – vị thuốc (tác giả: BS. Huỳnh Liên Đoàn), trong tháng 10/2018.

Về công tác hợp tác trong nước và quốc tế, Hội hợp tác với Quỹ khoa học Takeda Nhật Bản để cấp học bổng tu nghiệp cho hội viên, mỗi năm 2 suất, bắt đầu từ năm 2007, đã cử 9 hội viên thuộc các hội chuyên khoa gây mê hồi sức, giải phẫu bệnh, tim mạch nhi, phẫu thuật tim mạch, nội tổng quát, răng hàm mặt. Phản hồi từ phía Takeda và phía học viên đều rất tốt, có học viên như BS. Trương Sáng Kiến và BS. Đoàn Nguyễn Minh Thiện tiếp tục chương trình học tiến sĩ.

Trong nước, Hội còn phối hợp với Tổng Hội Y Học Việt Nam tổ chức hội thảo về “Vai trò của Hội Y Học trong đào tạo liên tục cho cán bộ y tế” cho các hội y học các tỉnh phía Nam tại khách sạn Duxton (23/8/2015).

Công tác tư vấn, phản biện, Hội trao đổi với Sở Y Tế để tham vấn, cùng giải quyết một số vướng mắc trong chuyên môn và trong quản lý hành nghề, tham gia góp ý quy chế phối hợp giữa Sở Y Tế với các hội nghề nghiệp lĩnh vực y. Cử cán bộ chủ chốt tham gia với Viện Nghiên Cứu & Phát Triển Sức Khỏe Cộng Đồng nghiên cứu tình hình hành nghề y tế tư nhân tại TP.HCM; Ban điều phối Quỹ Toàn Cầu của Việt Nam về HIV/AIDS, lao, sốt rét; Hội đồng tư vấn xét cấp phép hành nghề y tư nhân; tham gia cùng đoàn đại biểu Quốc hội tại TP.HCM đóng góp cho các dự luật như: hiến xác – ghép tạng, khám chữa bệnh, phòng chống tác hại thuốc lá, Luật thủ đô; tham gia góp ý kiến với Tổng hội văn bản dự thảo hướng dẫn Luật khám chữa bệnh, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế…

Hội Y Học TP.HCM đã thu hút tập hợp được đông đảo lực lượng trí thức y khoa. Thế mạnh của Hội, đa số hội viên là các nhà khoa học và là cán bộ y tế có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, sẵn sàng cống hiến sức lực và trí tuệ cho sự phát triển thành phố và cả nước. Việc phát triển và mở rộng Hội Y Học với sự tăng trưởng của các hội chuyên khoa, thể hiện nhu cầu phát triển nội tại của các nhà khoa học, đồng thời phản ánh xu thế khách quan của sự phát triển khoa học – công nghệ trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế và nhu cầu của xã hội.

Các hội chuyên khoa và các nhà khoa học đã tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động bồi dưỡng, đào tạo và phổ biến kiến thức khoa học, kỹ năng chuyên môn, có sự tham gia của các đồng nghiệp nước ngoài, đồng thời tham gia hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội.

Trương Thị Xuân Liễu, Chủ tịch Hội Y Học cho biết, nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trên là do Hội Y Học đã huy động được gần như toàn bộ lực lượng khoa học và kỹ thuật trong ngành y để tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội, cũng như trong chương trình nghiên cứu khoa học thảo của Tổng Hội, Liên Hiệp Hội và Sở Y Tế TP.HCM.

Tuy đạt nhiều thành tựu nhưng vẫn còn tồn tại như Hội chưa chủ động đề xuất các vấn đề quan trọng cần tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học kỹ thuật chưa tham gia đầy đủ vào công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Công tác đối ngoại tuy có phát triển mạnh nhưng chưa huy động tất cả tiềm năng hiện có của Hội và các hội chuyên khoa. Công tác liên kết, phát triển và kết hợp giữa Hội với các hội chuyên khoa cũng như giữa các hội chuyên khoa với nhau còn một số mặt hạn chế.

Từ 2014 đến 2018, Hội Y Học TP.HCM đã tổ chức 237 buổi sinh hoạt, trong đó 46 buổi với hội cấp trên, 10 buổi với đơn vị bạn, 181 buổi nội bộ (8 buổi với ban chấp hành, 10 buổi ban thường vụ, 140 buổi của ban thường trực, và 23 buổi với các hội chuyên khoa). Hội đã bảo đảm được nề nếp sinh hoạt định kỳ (1 năm, 6 tháng và 2 tuần) với các buổi họp nhằm tiếp nhận thông tin triển khai công tác để đáp ứng việc điều hành và phối hợp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Hội Y Học và các hội chuyên khoa.
Có 806 trường hợp được tặng thưởng (215 tập thể và 591 cá nhân), trong đó có 1 huân chương độc lập hạng hai, truy tặng VS.TS. Dương Quang Trung, 1 huân chương lao động hạng ba cho Hội Y Học TP.HCM, 120 bằng khen các cấp (có 5 bằng khen của Thủ tướng), 15 kỷ niệm chương, 669 giấy khen.

HỒNG DUNG

http://www.khoahocphothong.com.vn/hoi-y-hoc-thanh-pho-ho-chi-minh-luc-luong-tri-thuc-y-khoa-dong-gop-cho-su-phat-trien-thanh-pho-va-ca-nuoc-53569.html

 

Tiếp đoàn đại biểu Hội Y Học Long An

Vào lúc 9 giờ sáng ngày thứ năm 05.04.2018, Hội Y Học TP.HCM tiếp đoàn khách từ Long An đến thăm Văn phòng Hội.
Đoàn khách gồm: TS.BS. Võ Thị Dễ, Chủ tịch Hội Y Học Long An; chị Huê, Phó chủ tịch UBND huyện Tân Thạnh; chị Phương, UBND huyện Tân Thạnh; anh Chính, Phó bí thư xã Nhân Hòa.
Hội Y Học TP.HCM gồm: BS. Trương Thị Xuân Liễu, Chủ tịch Hội; BS. Huỳnh Anh Lan, Phó chủ tịch/Tổng thư ký; BS. Huỳnh Liên Đoàn, Phó chủ tịch; BS. Trần Thanh Xuân, Chánh văn phòng.
Hội Y Học TP.HCM cam kết sẽ đẩy mạnh công tác từ thiện tại Long An, bao gồm xây cầu, xây nhà tình thương,… cho bà con vùng sâu vùng xa.
Hai bên cũng mong giữ được mối liên kết, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Văn phòng Hội Y Học TP.HCM
09.04.2018

Điều trị viêm gan c ở các nước thu nhập thấp

Chỉ hai thập kỷ sau khi nhận diện được virút viêm gan C (HCV), sự hiểu biết nhiều hơn về vòng đời của virút đã dẫn đến sự ra đời một số nhóm thuốc điều trị nhiều hứa hẹn. Ngay từ năm 2015, tỉ lệ đáp ứng virút-học bền vững sẽ ở tầm 90% đối với phần lớn các kiểu gen HCV, và tỉ lệ “khỏi bệnh” hữu hiệu này sẽ đạt được thông qua những những phác đồ ngắn, dùng một loại viên duy nhất, liều cố định, tiện dụng, không chứa interferon, với diện mạo tác dụng phụ tốt hơn rõ rệt so với những điều trị trước kia. Việc sử dụng những thuốc này hy vọng làm giảm cường độ theo dõi, tỉ lệ nằm viện vì tác dụng phụ, sự lệ thuộc vào chăm sóc đặc biệt, và nhu cầu nguồn lực liên quan đến tiến triển bệnh, bao gồm ghép gan và điều trị bệnh gan giai đoạn cuối và ung thư gan. Tuy nhiên, với chi phí thuốc có thể vượt quá 90.000 USD mỗi liệu trình, vẫn còn phải xem những tiến bộ to lớn này sẽ mở rộng ra sao đến 150 triệu người nhiễm HCV sống ngoài thị trường đích của những thuốc này là các nước có thu nhập cao.
HCV gây ra 28% số trường hợp xơ gan và 26% số trường hợp ung thư gan trên toàn cầu, chiếm gần 500.000 trường hợp tử vong mỗi năm (Lozano R và cs, 2012). Các nước thu nhập trung bình và thu nhập thấp chiếm hơn 80% gánh nặng HCV toàn cầu, với tỉ lệ nhiễm nhiều nhất ở Nam Á, Đông Á, Bắc Phi, Trung Đông, và Đông Nam Á (Mohd Hanafiah K và cs, 2013). Các kiểu gen HCV 4, 5, và 6 đặc biệt hay gặp ở những vùng này, nhưng các phác đồ điều trị mới có thể đạt được đáp ứng trên bệnh nhân bị nhiễm các kiểu gen này tương tự như tỉ lệ đạt được trên bệnh nhân nhiễm kiểu gen 1 vốn chiếm ưu thế ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Phần lớn bệnh nhân nhiễm HCV ở các nước thu nhập thấp và trung bình vẫn không được điều trị. Điều trị HCV trước đây đòi hỏi phải tiêm interferon hàng tuần, dùng phối hợp với ribavirin. Điều trị này có nhiều thách thức trong bối cảnh nguồn lực hạn hẹp, bao gồm chi phí interferon, các liệu trình kéo dài 6 đến 12 tháng, và các tác dụng phụ bao gồm hội chứng giống cúm, giảm các dòng huyết cầu, nhiễm khuẩn, trầm cảm, và mất bù gan. Năm 2011, thuốc kháng virút tác động trực tiếp (DAA) thế hệ thứ nhất— telaprevir và boceprevir — được phê chuẩn, và tỉ lệ đáp ứng virút-học bền vững, vốn từ 40 đến 50% với các phác đồ trước kia, tăng lên 65 đến 75%. Tuy vậy, hai thuốc này chưa được chấp nhận rộng rãi ở các nước thu nhập thấp và trung bình, vì chúng vẫn phụ thuộc vào một điều trị “xương sống” gồm interferon và ribavirin kéo dài và chỉ được chấp thuận để sử dụng chống HCV kiểu gen 1. Chúng cũng có những tác dụng phụ có ý nghĩa lâm sàng, một rào cản di truyền thấp đối với sự phát triển tính đề kháng của virút, các yêu cầu dùng thuốc đặc hữu, và nhiều tương tác thuốc—đặc biệt là khi dùng với các thuốc kháng retrovirus cần thiết trên bệnh nhân bị đồng nhiễm HIV…

Download pdf

Tiếp cận bệnh nhân bị “tăng men gan”

Bùi Hữu Hoàng* 

Gan là cơ quan đảm nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng trong cơ thể, trong đó có nhiệm vụ chuyển hóa các chất. Chính vì vậy, gan có rất nhiều các loại men (enzyme) khác nhau để xúc tác các phản ứng sinh hóa trong cơ thể. “Tăng men gan” là tình trạng các men này bị phóng thích vào máu do tế bào gan bị hoại tử. Hay nói một cách khác, tăng men gan, đặc biệt là tăng các men transaminase trong máu là hiện tượng gián tiếp cho biết đang có quá trình viêm và hoại tử tế bào gan. Ngoài ra, các loại men khác như γ-glutamyl transferase (GGT) và phosphatase kiềm lại liên quan đến tình trạng bất thường về bài tiết ở gan.
Transaminase là các enzyme nội bào, thường tăng khi có tổn thương tế bào gan, bao gồm: men aspartate aminotransferase (AST) hay còn gọi là glutamic-oxaloacetic transaminase (SGOT). Men này có trong bào tương và ti thể ở nhiều loại tế bào (theo thứ tự giảm dần): gan, cơ tim, cơ xương, thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu. Do vậy, sự tăng của AST không đặc hiệu cho gan vì còn có thể do bất thường ở các nơi khác. Còn men alanine aminotransferase (ALT) hay glutamic-pyruvic transaminase (SGPT) hiện diện chủ yếu ở trong bào tương tế bào gan nên sự tăng ALT đặc hiệu hơn cho tổn thương ở gan. Chức năng của các men này là xúc tác các phản ứng chuyển gốc amin (NH2) giữa các acid amin với nhau. Aminotransferase còn có thể tăng khi có tăng tính thấm màng tế bào mà không bắt buộc phải có hoại tử tế bào gan. Mức tăng aminotransferase không giúp tiên lượng mức độ tổn thương tế bào gan. Hiện nay, giá trị bình thường của men aminotransferase được đề nghị là < 30 U/L ở nam và < 19 U/L ở nữ.
Đứng trước tình trạng tăng men gan, chúng ta cần quan tâm đến mức độ tăng ít hay nhiều, tăng ưu thế thành phần AST hay ALT vì có thể giúp hướng đến một số nguyên nhân làm tăng men gan…

Download pdf