TỔNG QUAN VỀ BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

PGS, TS Nguyễn Thy Khuê

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một rối loạn chuyển hóa mạn tính có đặc điểm chính là glucose  huyết trong máu tăng cao. Glucose tăng cao trong máu lâu ngày sẽ làm tổn thương nhiều tổ chức, cơ quan trong cơ thể. Một trong những tổn thương quan trọng nhất xảy ra ở hệ thống
mạch máu, do đó biến chứng chính của bệnh ĐTĐ bao gồm biến chứng mạch máu lớn và biến
chứng mạch máu nhỏ. Tuy nhiên bệnh ĐTĐ cũng gây ra nhiều tổn thương ở các cơ quan khác
như da, răng miệng…
Biến chứng mạch máu nhỏ của bệnh ĐTĐ bao gồm:
 Biến chứng ở đáy mắt còn gọi là bệnh võng mạc ĐTĐ
 Biến chứng ở thận còn gọi là bệnh thận ĐTĐ
 Biến chứng thần kinh còn gọi là bệnh thần kinh ĐTĐ
Biến chứng mạch máu lớn của bệnh ĐTĐ có tổn thương chính là tình trạng xơ vữa động mạch với các hậu quả chính trên lâm sàng sau đây:
o Đột quị (do thiếu máu não, xuất huyết não), hoặc cơn thiếu máu não thoáng qua.
o Bệnh cơ tim thiếu máu, nhồi máu cơ tim.
o Bệnh mạch máu ngoại vi.

Yếu tố nào gây ra biến chứng của đái tháo đường?
Tùy từng loại biến chứng cơ chế sinh bệnh có thể thay đổi, nhưng yếu tố luôn hiện diện là tình trạng tăng glucose huyết kéo dài. Tuy nhiên có một số bệnh nhân dù glucose huyết tăng cao lâu ngày, nhưng biến chứng rất ít. Một số bệnh nhân khác chỉ bị bệnh một thời gian ngắn nhưng lại nhiều biến chứng nặng. Do đó ngoài tăng glucose huyết có thể còn có thêm ảnh hưởng của di truyền, môi trường hoặc các bệnh đi kèm như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu…

Có cách nào để giảm bớt hoặc ngăn chặn biến chứng của bệnh ĐTĐ
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh giảm glucose huyết, giảm được biến chứng. “Nghiên cứu tiến cứu về bệnh ĐTĐ tại Vương Quốc Anh” theo dõi trong vòng 20 năm, khoảng 5000 bệnh nhân ĐTĐ type 2 mới chẩn đoán được chia làm 2 nhóm, một nhóm giảm glucose huyết tích cực và một nhóm chỉ điều trị sao cho bệnh nhân không có triệu chứng uống nhiều, tiểu nhều. Sau thời gian theo dõi trung bình 10 năm, nhóm giảm glucose huyết tích cực giảm các biến chứng liên quan đến ĐTĐ khoảng 25% so với nhóm điều trị không tích cực; nghiên cứu sau đó được kéo dài thêm 10 năm, trong thời gian này cả hai nhóm đều được điều trị tích cực như nhau nhưng biến chứng mạch máu nhỏ và cả biến chứng mạch máu lớn (nhồi máu cơ tim) vẫn ít hơn ở nhóm được điều trị tích cực ngay từ đầu.
Ở bệnh nhân ĐTĐ type 1 cũng có nghiên cứu cho kết quả tương tự: nghiên cứu mang tên “Kiểm soát ĐTĐ và các biến chứng [Diabetes Control and Complications Trial –viết tắt là DCCT]” được thực hiện ở 1441 bệnh nhân ĐTĐ type 1, sau thời gian theo dõi trung bình 6,5 năm, nhóm được điều trị giảm glucose huyết tích cực có biến chứng mạch máu nhỏ (ở thận, đáy mắt và thần kinh) ít hơn nhóm giảm glucose huyết kém tích cực. Sau đó các bệnh nhân được tiếp tục theo dõi thêm khoảng 17 năm, lúc này cả hai nhóm cũng đều được điều trị tích cực như nhau, nhưng ở nhóm điều trị tích cực ngay từ đầu các biến chứng mạch máu nhỏ và cả các biến cố tim mạch đều ít hơn nhóm điều trị không tích cực.
Kết quả của hai nghiên cứu này đưa đến kết luận quan trọng: ngay từ khi mới chẩn đoán bệnh ĐTĐ, nếu điều trị giảm glucose huyết thật tốt, sẽ giảm được cả biến chứng mạch máu nhỏ và mạch máu lớn.
Một nghiên cứu khác quan trọng ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 đã có albumin niệu – nghiên cứu Steno (được thực hiện tại trung tâm ĐTĐ Steno ở Đan mạch)- cho thấy nếu điều trị tích cực và toàn diện tất cả yếu tố nguy cơ tim mạch của bệnh ĐTĐ như tăng glucose huyết, tăng huyết áp, tăng cholesterol máu, ngưng hút thuốc cùng với ăn uống đúng và luyện tập thể lực, có thể giảm được biến chứng ở mắt, thận, thần kinh sau 8 năm; hơn thế nữa sau khi theo dõ thêm 13 năm, nhóm được điều trị tích cực ngay từ đầu giảm được 50% biến cố tim mạch và 50% tử vong.

Từ các kết quả nghiên cứu trên, mục tiêu điều trị của bệnh ĐTĐ đã được xác định.
– Mục tiêu glucose huyết HbA1c < 7%
– Huyết áp <140/80 mmHg hoặc <130mmHg
– LDL cholesterol < 100 mg/dL (2,6 mmo/L) khi bệnh nhân chưa bị biến cố tim mạch và <70 mg/dL (1,8mmol/L) ở bệnh nhân ĐTĐ đã bị biến cố tim mạch.
– HDL cholesterol > 40 mg/dL(1mmol/L) ở nam giới hoặc >50 mg/dL(1,25mmol/L) ở nữ giới
– Triglycerid < 150 mg/dL (1,68mmol/L)
– Ngưng hút thuốc lá
– Giảm cân nếu có thừa cân, béo phì.
Để đạt được các mục tiêu trên, bệnh nhân nên tuân thủ điều trị, theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ và cần lưu ý sử dụng thuốc luôn luôn phải đi cùng với ăn uống điều độ và luyện tập thể lực đều đặn. Chế độ luyện tập thay đổi tùy theo sức khỏe của bệnh nhân, đơn giản nhất là đi bộ ít nhất mỗi ngày nửa tiếng, nếu bệnh nhân đã lớn tuổi đau khớp có thể chia ra đi bộ nhiều lần trong ngày, thí dụ đi bộ 10-15 phút sau 3 bữa ăn sáng, trưa, chiều.


Chế độ ăn lành mạnh là chế độ ăn có nhiều chất xơ, giảm chất béo (nhất là chất béo bão hòa có trong mỡ động vật hoặc chất béo trans có trong các loại thức ăn chiên rán ngập dầu, margarine, bánh bích qui), giảm muối, lượng bột đường vừa đủ. (Xin tham khảo thêm bài “có thể phòng ngừa bệnh đái tháo đường bằng cách ăn uống hợp lý?”).
Cũng cần chú ý duy trì nếp sống điều độ như ăn đúng giờ, ngủ đủ giấc, tránh ngồi lâu chơi vi tính hoặc xem truyền hình.